Trong bối cảnh
toàn cầu hóa và mở rộng giao lưu quốc tế hiện nay, văn hóa nghệ thuật Nhật Bản
ngày càng được giới thiệu rộng rãi trên thế giới, và người Nhật thường được biết
đến như một dân tộc duy mỹ. Tuy nhiên, để thấu hiểu giá trị thẩm mỹ trong những
tác phẩm nghệ thuật Nhật Bản, người thưởng thức cần có hiểu biết đầy đủ và sâu
sắc về ý thức thẩm mỹ Nhật Bản truyền thống, gắn liền với tư tưởng độc đáo của
người Nhật về thế giới, nhân sinh. Một trong những nét độc đáo của tư tưởng thẩm
mỹ Nhật Bản là sự kết hợp tự nhiên giữa tính dân tộc và tính nhân loại, thể hiện
qua ý nghĩa phong phú của các khái niệm mỹ học nền tảng trong lịch sử phát triển
ý thức thẩm mỹ truyền thống từ thời cổ đại đến thời trung đại. Bài viết trình
bày vấn đề trên qua việc phân tích ba khái niệm then chốt của mỹ học Nhật Bản
truyền thống là “irogomoni”, “mono no aware” và “yugen”, với mong muốn đóng góp
một cách nhìn hệ thống trong lĩnh vực nghiên cứu về ý thức thẩm mỹ Nhật Bản.
1.
“Irogonomi” và tâm thức tìm kiếm cái đẹp “lý
tưởng”
“Irogonomi” là một
khái niệm thể hiện nội dung rất đặc thù của ý thức thẩm mỹ Nhật Bản truyền thống.
Nhưng vì khái niệm này rất cổ, chỉ được sử dụng chủ yếu trong văn hóa – văn học
Nhật Bản từ thời Heian trở về trước, nên ít được biết đến ngay cả trong những
công trình nghiên cứu văn học và mỹ học của các học giả Nhật Bản hiện đại. Trong
phạm vi tư liệu bằng tiếng Nhật mà chúng tôi bao quát được, “irogonomi” được nhắc
đến trong một số công trình nghiên cứu văn học Nhật Bản cổ điển, đặc biệt “irogonomi”
là một nội dung hết sức quan trọng khi các học giả Nhật Bản trình bày lập luận
về tư tưởng văn học, tư tưởng thẩm mỹ của người Nhật thể hiện trong truyện cổ
và những tác phẩm văn học Nhật Bản thời Heian, trong đó dòng văn học monogatari
chiếm vị trí trung tâm với Genji
monogatari 「源氏物語」 là đại diện tiêu biểu nhất.
Trong số những học
giả thời hiện đại nghiên cứu về tư tưởng và văn học cổ điển Nhật Bản, Orikuchi
Shinobu được biết đến như một người đã “làm sống lại”[1]
khái niệm “irogonomi” trong các công trình nghiên cứu về văn học dân gian cổ đại,
mở ra một hướng lý giải mới cho việc tìm hiểu các tác phẩm văn học từ thời thượng
cổ đến thời Heian gắn với tư tưởng “irogonomi” trong quan niệm thẩm mỹ của người
Nhật ở thời kỳ nguyên sơ của nền văn hóa Nhật Bản. Cụ thể, các nhà nghiên cứu
Suzuki Hideo, Okano Hirohiko và Hasegawa Masaharu trong những công trình nghiên
cứu về Genji monogatari và văn học –
văn hóa thời Heian[2] đều vận
dụng khái niệm “irogonomi” như một yếu tố trong luận thuyết của Orikuchi
Shinobu để phân tích hình tượng nhân vật và giá trị thẩm mỹ trong các tác phẩm
văn học cổ điển, theo khuynh hướng lý giải những giá trị văn chương gắn với điều
kiện văn hóa đã sinh thành tác phẩm, chi phối nhận thức thẩm mỹ và cách thức biểu
đạt thẩm mỹ của tác giả trong quá trình sáng tác. Riêng Hasegawa đã nói rất rõ
rằng “chúng tôi đã đọc và tiếp thu yếu tố
“irogonomi” đã được xác lập như học thuyết Orikuchi”[3]
trước khi vận dụng học thuyết này vào đối tượng nghiên cứu cụ thể.
Trong tiếng Nhật
hiện đại thì “irogonomi” có thể được xem là cách đọc của từ 色好み hay 色好viết bằng Hán tự, và nếu
hiểu từ này theo hướng chiết tự thì “irogonomi” có nghĩa là “hiếu sắc”. Tuy
nhiên, có một điểm cần lưu ý ở đây là để biểu thị ý nghĩa “hiếu sắc”, trong tiếng
Nhật đã có từ “koshoku”, được viết bằng Hán tự là 好色, là một từ trong ngôn
ngữ văn chương và đời sống, được dùng phổ biến từ thời Edo. Một nhà văn nổi tiếng
thời Edo là Ihara Saikaku đã viết nhiều tác phẩm thuộc dòng “văn học phù thế”
như Koshoku daiichi otoko 「好色一代男」 (Người đàn ông
hiếu sắc), Koshoku daiichi onna 「好色一代女」 (Người đàn bà hiếu
sắc), Koshoku gonin onna「色五人女」(Năm người đàn
bà hiếu sắc) v.v..., cho nên trong ngôn ngữ đời thường đã hình thành một từ chỉ
những tiểu thuyết miêu tả đời sống tình ái và sự đam mê sắc dục là “truyện hiếu
sắc” (好色物).
Như vậy nghĩa “hiếu sắc” của từ “koshoku” đã được xác định rõ ràng. Vấn đề cần
xem xét là “Irogonomi” và “koshoku” có phải là hai từ đồng nghĩa hay không, và
nếu không thì ý nghĩa cũng như cách sử dụng của từ “irogonomi” nên được hiểu thế
nào cho đúng.
Trong bài viết “Nhân vật nam nữ trung tâm trong Genji monogatari”, sau này được in trong
Orikuchi Shinobu toàn tập, nhà nghiên
cứu Orikuchi đã viết rằng “Phật giáo đã đến
Nhật Bản từ rất sớm. Nho giáo cũng được du nhập vào Nhật Bản. Trước đó, rõ ràng
ở Nhật Bản đã từng tồn tại một kiểu giá trị gần giống như đạo đức, và điều đó
được biểu hiện trong ngôn ngữ qua từ “irogonomi”. Từ này có nghĩa là lựa chọn
người nữ ưu tú nhất”[4].
Cũng trong công trình nghiên cứu nói trên, tác giả
còn giải thích thêm nguồn gốc hình thành kiểu “đạo đức” hay “lý tưởng” như vậy,
rằng:
Đó
là việc lựa chọn và kết hôn với người nữ được cho là xuất sắc nhất trong cả nước.
Kiểu hôn nhân như vậy được thực hiện nhiều lần. Làm như thế là nam giới đã bảo
trợ và tạo điều kiện phát triển cho những người phụ nữ tài năng hay có uy thế về
tôn giáo. Còn về vấn đề những ai sẽ là người thực hiện điều này, thì có thể dựa
vào tôn giáo và lịch sử Nhật Bản để nói rằng đó chính là những người đã đứng đầu
nước Nhật và cai trị đất nước trong một khoảng thời gian rất dài[5].
Từ những khẳng định và giải thích của nhà nghiên cứu
Orikuchi như trên, có thể thấy rằng “irogonomi” vốn là một khái niệm của văn
hóa Nhật Bản thời thượng cổ và có ý nghĩa khác hẳn với “koshoku” trong tiếng Nhật
hiện đại. Orikuchi cũng đưa ra những ví dụ cho thấy từ “sukigokoro” 好き心 hay “sukimono” 好き者 thời Heian mới đồng
nghĩa với từ “koshoku”[6].
Trong khi “koshoku” hay “sukigokoro” chỉ sự đam mê tình ái trong đời sống dung
tục, tầm thường thì “irogonomi” thể hiện một quan niệm độc đáo về sự lý tưởng mang
ý nghĩa đạo đức của người Nhật Bản trong thời kỳ văn hóa bản địa còn đậm chất
nguyên sơ, chưa chịu ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo và Nho giáo trong quan niệm
về đạo đức hay mối quan hệ giữa con người với con người. Chính vì vấn đề từ
nguyên như vậy mà các nhà nghiên cứu chuyên nghiệp như Suzuki Hideo hay
Hasegawa Masaharu khi đề cập đến khái niệm này đều viết từ いろごのみ
bằng
chữ hiragana và để trong dấu ngoặc <>
chứ không viết bằng Hán tự thành 色好như
một từ thông dụng trong đời sống. Nói cách khác, theo quan niệm phổ biến trong
ngôn ngữ và văn hóa Nhật Bản, nếu được viết bằng Hán tự thì khái niệm
“irogonomi” sẽ bị thu hẹp ý nghĩa, thậm chí bị hiểu sai lệch so với nghĩa gốc của
từ này trong bối cảnh văn hóa cổ đại, cho nên trong các công trình nghiên cứu cần
phải viết từ này bằng chữ hiragana để giữ được đầy đủ ý nghĩa văn hóa nói trên.
Ý nghĩa của từ “irogonomi” theo cách luận giải của
Orikuchi làm hé lộ một khía cạnh quan trọng trong tư tưởng – văn hóa Nhật Bản
thời thượng cổ, đặc biệt giúp cho những nhà nghiên cứu không sinh trưởng trong
nền văn hóa Nhật có cơ sở để lý giải những tác phẩm cổ điển của văn học Nhật Bản
một cách đầy đủ và chính xác hơn. Theo lý thuyết của Orikuchi thì nhiều hình tượng
nhân vật trong truyện cổ Nhật Bản cũng như trong một số tác phẩm thuộc dòng văn
học monogatari mang vẻ đẹp lý tưởng theo quan niệm “irogonomi” của xã hội Nhật
Bản đương thời. Vì vậy, nhà nghiên cứu nếu không thấu hiểu quan niệm
“irogonomi” thì khó mà có được những luận giải đúng đắn, thuyết phục và sâu sắc
về giá trị thẩm mỹ của hình tượng nhân vật và của toàn tác phẩm. Trên thực tế,
điều này đã được minh chứng bằng lịch sử bình luận, nghiên cứu tác phẩm đồ sộ
nhất của văn học cổ điển Nhật Bản là Genji
monogatari, với nhân vật trung tâm Hikaru Genji là trường hợp rất khó đánh
giá theo quan niệm đạo đức thông thường trong xã hội hiện đại.
2.
Từ
“irogonomi” đến “mono no aware”
“Irogonomi”
là một quan niệm được hình thành trong đời sống thực tế của người Nhật Bản thời
cổ đại, và từ đó đã đi vào văn chương, mang lại cho văn chương một vẻ đẹp rất đặc
trưng của văn hóa thuần chất Nhật Bản. Cũng có thể nói rằng “irogonomi” xuất
phát từ tập quán thời cổ cho phép nam giới thuộc tầng lớp quý tộc được tuyển chọn
và kết hôn với người nữ ưu tú nhất trong cả nước, và tập quán này đã hình thành
trong xã hội đương thời khuynh hướng tìm kiếm và nắm bắt cái đẹp “lý tưởng”.
Qua thời gian, điều đó trở thành một tâm thức phổ biến của quý tộc nói chung,
không phân biệt nam giới hay nữ giới. Việc tìm kiếm và sở hữu cái đẹp “lý tưởng”
qua hình ảnh đối tượng kết hôn trong bối cảnh văn hóa như vậy được cho là một
kiểu “đạo đức” tốt đẹp vì gắn liền với ý thức giữ gìn và tôn vinh vẻ đẹp hay những
giá trị đáng quý ở con người. Trong suy nghĩ thuần phác của người Nhật thời xưa
thì điều đó tạo nên truyền thống phát hiện, bảo tồn cái đẹp, cái thiêng liêng
quý giá, và thông qua đó mà những người có sứ mệnh đứng đầu quốc gia chứng tỏ
được địa vị tôn quý của mình, đồng thời thực hiện được ở mức độ tốt nhất công
việc cai trị quốc gia theo ý chí của các thần linh hộ quốc. Điều này được thể
hiện rõ nét qua hình tượng các vị thần “kiệt xuất” trong Kojiki「古事記」
(Cổ sự ký), hay hình tượng nhân vật đào hoa, đa tình thường xuất hiện trong các
truyện kể như Taketori monogatari 「竹取物語」 (Truyện ông già
đốn tre), Ise monogatari 「伊勢物語」 (Truyện Ise). Genji monogatari với nhân vật trung tâm
Hikaru Genji cũng là một trường hợp thể hiện tâm thức tìm kiếm và sở hữu cái đẹp
lý tưởng theo quan niệm “irogonomi”. Cho nên, có hiểu được “đạo đức irogonomi”
thì mới thấy các nhân vật đào hoa, đa tình trong những tác phẩm trên là hình tượng
thể hiện cái đẹp lý tưởng theo quan niệm đương thời – cái đẹp có sức thu hút tự
nhiên những người khác phái, giúp cho nhân vật có khả năng chinh phục và chiếm
hữu tình cảm của nhiều đối tượng.
Tuy nhiên, do sự
biến đổi của văn hóa – xã hội qua nhiều giai đoạn lịch sử kéo theo sự biến đổi
về tư tưởng, nhận thức ở con người, từ hậu kỳ thời Heian trở đi thì quan niệm đạo
đức, thẩm mỹ của người Nhật Bản ngày càng xa rời quan niệm “irogonomi” thời cổ
đại. Đặc biệt là trong thời trung đại, với những quy phạm khắt khe về đạo đức
theo Nho giáo, người ta khó có thể chấp nhận khuynh hướng tìm kiếm và chiếm hữu
cái đẹp với tinh thần tự do, rộng mở theo quan niệm “irogonomi”. Bên cạnh đó,
tư tưởng Phật giáo dung hòa với thế giới quan, nhân sinh quan truyền thống của
người Nhật Bản đã làm nảy sinh những quan niệm mới về giá trị thẩm mỹ, thể hiện
qua các khái niệm mỹ học mà ngày nay được biết đến rộng rãi trong giới nghiên cứu
văn hóa – văn học Nhật Bản như “mono no aware” và “yugen”.
Cũng giống như khái niệm “irogonomi” được trình bày ở
phần trên gắn liền với “học thuyết Orikuchi”, “mono no aware” như một khái niệm
then chốt của mỹ học truyền thống Nhật Bản gắn liền với tên tuổi Motoori
Norinaga – nhà quốc học thời Edo có nhiều đóng góp quan trọng cho công việc
nghiên cứu những thành tựu văn học cổ điển. Đặc biệt, với việc lý giải cặn kẽ
khái niệm “mono no aware” và vận dụng những lý giải này vào công trình nghiên cứu
Genji monogatari, Motoori trở thành học
giả đầu tiên “phát hiện” giá trị thẩm mỹ của tác phẩm tự sự cổ điển này, mở ra
một hướng nghiên cứu mới với chủ trương tìm kiếm và làm sáng tỏ vẻ đẹp của Genji monogatari như một tác phẩm hư cấu,
thay vì bình luận tác phẩm như một truyện kể lịch sử hay một thuyết thoại có
tính răn đời.
Công trình
nghiên cứu thể hiện rõ quan điểm và lập luận nói trên của Motoori là Genji monogatari tama no ogushi 「源氏物語玉の小櫛」 (Genji
monogatari – chiếc lược cài nạm ngọc), gồm 9 chương, trong đó chương 2 tập
trung giải thích khái niệm “mono no aware” được xem là nội dung quan trọng nhất.
Theo luận giải của Motoori trong công trình này thì “mono no aware” là một khái
niệm phức tạp, khó xác định ý nghĩa rõ ràng. Lần về nguồn gốc văn
hóa của “mono no
aware” để có thể hiểu đúng khái niệm này, Motoori đã viết:
Từ “aware” trước hết là tiếng nói cảm thán được thốt
lên khi cảm xúc nảy sinh trong lòng do tiếp xúc với sự vật mà mình nhìn thấy
hay nghe thấy, là các từ “aa” và “ware” trong ngôn ngữ đời thường. Chẳng hạn với
cảm xúc khi thưởng nguyệt ngắm hoa thì người ta sẽ thốt lên rằng “aa, hoa thật
đẹp!” hay “ware,
trăng đẹp quá!”. Từ “aware” hình thành do hai từ “aa” và “ware” ghép lại với
nhau, và khi sử dụng Hán văn thì người ta dùng chữ “嗚呼”
cũng là để ghi âm “aa” này. Trong ngôn ngữ cổ, những từ như “ana” hay “aya”
cũng có thể được dùng với ý nghĩa tương tự[7].
Sau đoạn trên,
Motoori còn đưa ra nhiều minh họa để giải thích một cách chi tiết về ý nghĩa và
cách sử dụng của từ “aware”. Theo đó, “aware” vốn là một thán từ, theo quá
trình thay đổi của ngôn ngữ trong đời sống và trong sáng tác văn chương, dần dần
được sử dụng trong thơ ca (thường có một danh từ kèm theo) để nói về một đối tượng,
một hình ảnh có khả năng khơi gợi cảm xúc mạnh mẽ hay sâu sắc ở con người, rồi
được dùng như một động từ để diễn tả trạng thái cảm xúc trước một đối tượng, một
khung cảnh nào đó[8]. Nói
chung, “aware” thường xuất hiện trong trường hợp cần diễn tả sự rung động của
tâm hồn con người, được dùng để thể hiện trạng thái cảm xúc khi tâm hồn rung động
và cả đối tượng gây nên sự rung động ấy.
Trong bài viết của
Motoori, chúng tôi đặc biệt chú ý đến đoạn văn trình bày sự thay đổi ý nghĩa của
từ “aware” như sau:
Người đời sau dùng chữ “哀”
(chữ “ai” với nghĩa “bi ai”) trong Hán tự để ghi từ “aware”, như vậy có thể hiểu
rằng từ này chỉ có nghĩa là “bi ai”, nhưng thật ra từ “aware” không bị giới hạn
trong một nghĩa duy nhất là “bi ai” như thế. Trong mọi trạng thái như hạnh
phúc, thích thú, vui tươi, cảm kích hay hài hước, tất cả những trường hợp khiến
người ta bật lên từ cảm thán “aaware” đều được xem là cảm thức “aware”. (...)
Tuy nhiên, trong nhiều trạng thái cảm xúc của tâm hồn con người, sự vui mừng
hay thích thú không phải là cảm xúc sâu sắc, mà chỉ có nỗi buồn phiền sầu muộn
hay tình thương yêu chiếm lĩnh toàn bộ trái tim con người mới là những tình cảm
sâu sắc tột cùng, nên có thể dùng từ “aware” để biểu đạt riêng những cảm xúc có
độ sâu như vậy. Do khuynh hướng này mà trong ngôn ngữ đời thường người ta dùng
từ “aware” với nghĩa “bi ai”[9].
Lập luận của
Motoori trong đoạn trên cung cấp một thông tin mới mẻ về ý nghĩa của từ “aware”
và cũng là một cách luận giải có tính thuyết phục cao, vì hiện tượng nghĩa của
từ bị biến đổi theo hướng tập trung vào một trường hợp điển hình như thế cũng
thường xuất hiện trong đời sống văn hóa – văn học Nhật Bản, mà tiêu biểu là từ
“hana” 花 (hoa nói chung) được dùng để chỉ “sakura” 桜 (hoa anh đào) và từ “tsuki” 月 (trăng) trở thành kigo[10]
của mùa thu trong thơ haiku. Hơn thế nữa, sự biến đổi ý nghĩa của từ “aware” như
được trình bày trong bài nghiên cứu của Motoori còn gợi mở một góc nhìn thú vị
để người đọc có thể hiểu rõ hơn về tâm hồn Nhật Bản. Trong nhiều cung bậc cảm
xúc của thế giới tâm hồn con người vốn muôn hình muôn vẻ, người Nhật đã nhận thấy
nỗi buồn gắn với tình yêu thương mới là tình cảm chủ đạo và sâu sắc, vì nó có
khả năng chi phối mạnh mẽ đời sống nội tâm của con người. Nỗi sầu muộn, u hoài
và tình thương yêu không làm cho ý nghĩa của từ “aware” trở nên tiêu cực. Trái
lại, với hàm nghĩa như thế, “aware” còn là một trạng thái tinh thần mà người Nhật
vươn đến trong khuynh hướng tìm kiếm và đề cao cái đẹp nói chung.
Trong tác phẩm
điển hình của văn học Nhật Bản thời Heian là Genji monogatari, từ “aware” chưa được hiểu thống nhất theo nghĩa
thu hẹp là “bi ai” mà thường được dùng trong trường hợp miêu tả vẻ đẹp của đối
tượng quan sát có sức lay động tâm hồn người quan sát, chẳng hạn như tác giả
thường dùng từ “có aware” đối với một khu vườn đẹp hay một nơi phong cảnh hữu
tình trước đôi mắt của người biết thưởng thức cái đẹp và yêu thích thiên nhiên.
Do đó, còn có cách dùng từ “aware” để nói về sự nhạy cảm với cái đẹp hay trình
độ, năng khiếu thẩm mỹ ở một người nào đó, và những người nhạy cảm trước vẻ đẹp
của thiên nhiên hoặc biết thưởng thức cái đẹp tao nhã trong đời sống phong lưu
thường được đánh giá là người “biết aware”. Từ những biểu hiện này, có thể hiểu rằng những người nhạy cảm với vẻ đẹp
của người khác phái và sức hấp dẫn của người khác phái trong quan hệ tình cảm cũng
là một kiểu người “biết aware”. Như vậy “aware” có mối quan hệ gần gũi với
“irogonomi” ở khía cạnh thể hiện sự rung động của tâm hồn con người trước cái đẹp,
hay là khả năng lay động tâm hồn của những gì có vẻ đẹp hay giá trị cao quý. Điều
này cũng được nói đến trong công trình nghiên cứu về Genji
monogatari của Suzuki Hideo, trên cơ sở tiếp thu cách luận giải của Motoori
về “mono no
aware”:
Có thể nói rằng ở nhân vật Hikaru Genji có sự kế thừa
giá trị đạo đức tốt đẹp theo quan niệm của thời cổ đại. Các cô gái quý tộc đã tỏ
ra nhạy cảm trước một chàng Genji như thế, và càng bị Genji thu hút thì càng rung
động sâu sắc trong tâm hồn. Đây cũng chính là “mono no aware” mà Motoori
Norinaga nói đến. Hikaru Genji đã phát huy sức
mạnh “irogonomi” trước nhiều phụ nữ là đối tượng tình cảm
của chàng, làm lay động tâm hồn các đối tượng và làm cho mối quan hệ giữa người
với người có tinh thần “mono no aware” sâu sắc[11].
3.
Từ
“mono no aware” đến “yugen”
Tuy khái niệm “aware” ở thời Heian chưa có nghĩa
chính xác là “bi ai” nhưng trạng thái cảm xúc hay khung cảnh mà từ “aware” miêu
tả trong văn chương thường phảng phất nỗi buồn. Trong trường hợp này, nỗi buồn được hiểu như một cảm
xúc tinh tế, như là một sự hòa trộn giữa tình yêu, niềm khao khát đam mê hướng
về cái đẹp và ý thức về sự tồn tại ngắn ngủi, mong manh của cái đẹp trong thiên
nhiên cũng như trong thế giới tình cảm của con người. Vận dụng cách giải thích của
Motoori về quá trình chuyển nghĩa của từ “aware” thì có thể nói rằng khái niệm
“aware” thời Heian đang ở vào giai đoạn trung gian của tiến trình thu hẹp
nghĩa. Nếu kết hợp xem xét hiện tượng này với tiến trình du nhập và lan tỏa của
tư tưởng Phật giáo trong đời sống văn hóa Nhật Bản, phải chăng có thể nhận xét
rằng cách hiểu và sử dụng từ “aware” thời Heian có liên quan đến sự ảnh hưởng của
triết lý Phật giáo đến thế giới quan, nhân sinh quan và đặc biệt là cảm thức thẩm
mỹ của người Nhật đương thời? Cụ thể hơn, “aware”, vốn gần gũi với “irogonomi” ở
khía cạnh diễn tả sự rung động tự nhiên của con người trước cái đẹp, trong bối
cảnh văn hóa chịu ảnh hưởng sâu đậm của quan niệm “vô thường” trong triết lý Phật
giáo, đã dần dần thay đổi ý nghĩa biểu đạt theo khuynh hướng gắn niềm đam mê
cái đẹp với nỗi buồn do ý thức về sự mong manh của sinh mệnh cái đẹp trong đời
sống, thiên nhiên. Điều này trở nên rõ ràng hơn khi ta
xem xét sự thay đổi trong ý
thức thẩm mỹ Nhật Bản qua sự xuất hiện của khái niệm mỹ học “yugen” thời trung
đại.
“Yugen” được viết
bằng Hán tự là chữ 幽玄 (đọc theo âm Hán Việt là “u huyền”). Nếu giải thích từ
này theo kiểu chiết tự thì yu
có nghĩa là u uẩn, mờ ảo còn gen có
nghĩa là màu đen, bóng tối,
nên trong ngôn ngữ đời thường yugen
có thể được hiểu
là thế giới huyền bí, sâu thẳm vượt
qua những chiều kích có thể nắm bắt và quan sát của thực tại
đời sống
con người.
Từ “yugen” đã xuất
hiện trong văn học Nhật Bản thời Heian với lời tựa Hán văn của tập thơ Kokinshu 「古今和歌集」
do Ki no Yoshimochi viết.
Trong lời tựa này, tác giả dùng từ “yugen” để nói đến vẻ đẹp hay sự sâu sắc về
ý nghĩa của những bài thơ tanka cổ. Đến thời trung đại, nhiều bậc thức giả đồng
thời là những nhà thơ, nhà văn nổi tiếng như Fujiwara Shunzei, Fujiwara Teika,
Kamo no Chomei, Yoshida Kenko đã đưa ra những cách giải thích khác nhau về ý
nghĩa của từ “yugen”. Nhưng nói chung, với tư tưởng và lý luận về thẩm mỹ của những bậc thức
giả nêu trên, “yugen” được xem như một giá trị thẩm mỹ quan trọng trong nghệ
thuật thơ ca thời trung đại.
Vì các nhà thơ, nhà bình luận nghệ thuật giải thích từ “yugen” theo
những cách khác nhau nên rất khó có thể đưa ra được một định nghĩa thống nhất
và sáng rõ cho từ này như một khái niệm mỹ học. Tuy nhiên, từ những tác phẩm
thơ ca được đánh giá cao vì thể hiện cảm thức “yugen” theo quan niệm nói trên,
có thể nhận thấy rằng “yugen” là vẻ đẹp trong ý thức thẩm mỹ vươn đến những cảm
xúc mơ hồ và sâu lắng, vượt qua sự trình hiện rõ ràng, cụ thể những hình ảnh, đối
tượng thẩm mỹ trong cuộc sống đời thường. Một tác phẩm nghệ thuật có vẻ đẹp
“yugen” đòi hỏi người thưởng thức phải thâm nhập vào thế giới cảm xúc tinh tế,
sâu sắc mà tác giả đã trải nghiệm và biểu đạt bằng ngôn ngữ nghệ thuật nhiều
khoảng trống. Cũng có
thể nói rằng
các loại hình nghệ thuật độc
đáo và nổi tiếng là khó hiểu như thơ haiku hay kịch No thời trung đại cũng là sự
thể hiện cảm thức thẩm mỹ này bằng các hình thức khác nhau, vì thơ haiku được
biết đến như một thể thơ cô đọng, kiệm lời, tiết giảm sự biểu đạt đến mức tối
thiểu còn kịch No là một trường hợp điển hình của nghệ thuật “dĩ huyễn độ
chân”, với “hiện thực” đời sống được thể hiện qua cái ảo là hồn ma đóng vai
chính shite trên sân khấu.
Ở đây, nếu đặt hai khái niệm “mono no aware” và
“yugen” vào một mối liên hệ trong tiến trình vận động của của ý thức thẩm mỹ
trên cái nền chung là diễn biến của lịch sử văn hóa Nhật Bản từ thời Heian đến
thời trung đại, sẽ dễ nhận ra rằng ý thức thẩm mỹ Nhật Bản đang thay đổi theo
hướng sâu sắc hơn nhưng cũng trừu tượng, huyền ảo hơn. Nói cách khác, nếu “mono
no aware” thiên về cái đẹp hình sắc thì “yugen” gần với cái đẹp tâm linh; “mono
no aware” là sự cảm thán của con người trước cái đẹp hiển lộ trong thế giới vô
thường còn “yugen” là vẻ đẹp không hình tướng, khó diễn tả, khó nắm bắt mà chỉ
có thể cảm nhận trực tiếp bằng cái tâm linh diệu đã thấu suốt tánh không của
cõi đời. Cả hai phạm trù thẩm mỹ đều có sự gần gũi với triết học Phật giáo,
nhưng dường như “mono no aware” thể hiện rõ hơn tính thị giác của ý thức thẩm mỹ
nguyên sơ thời cổ đại còn “yugen” lại cho thấy sự thâm nhập sâu sắc của tư tưởng
Phật giáo vào đời sống văn hóa Nhật Bản, làm nảy sinh cảm thức thẩm mỹ ở độ
“tinh lọc” cao hơn nhưng cũng mơ hồ, bí ẩn hơn. Cũng chính vì những nét đặc
trưng này mà “yugen” có mối liên hệ gần gũi với các cảm thức thẩm mỹ “yojo” 余情 (dư tình, dư vị),
“wabi” わび (đơn
bạc), “sabi” さび (tịch
tĩnh) v.v..., như cách thuyết giải của Fujiwara Shunzei về “yugen” và như đã được
nói đến trong các công trình nghiên cứu văn học – mỹ học Nhật Bản thời trung đại.
4.
Sự dung hợp tính dân tộc và tính nhân loại trong tiến trình vận động của ý thức
thẩm mỹ Nhật Bản từ “irogonomi” đến “yugen”
Qua nội dung chi tiết trong các phần trên, có thể nhận
thấy ý thức thẩm mỹ Nhật Bản đã trải qua một quá trình biến chuyển tinh tế cùng
với sự vận động của lịch sử văn hóa Nhật Bản từ thời cổ đại đến thời trung đại.
Sự biến chuyển này thể hiện rõ nét trong ý nghĩa và mối liên hệ giữa các khái
niệm “irogonomi”, “mono no aware” và “yugen”.
Từ “irogonomi” đến “mono no aware”, ý thức thẩm mỹ vận
động theo hướng dung hợp quan niệm cổ xưa của người Nhật về sự khát khao và chiếm
hữu vẻ đẹp lý tưởng với triết lý Phật giáo về bản chất vô thường của đời sống,
làm nảy sinh cảm thức tinh tế về số phận ngắn ngủi của cái đẹp, sự mong manh của
tình yêu hay sự bất toàn trong mối quan hệ và thế giới tình cảm của con người.
Bước sang thời trung đại, quang cảnh điêu tàn vì nội
chiến càng thể hiện rõ ràng hơn lẽ “sắc không” của cõi thế và tạo điều kiện cho
tư tưởng Phật giáo lan tỏa rộng hơn, thâm nhập sâu hơn vào đời sống văn hóa Nhật
Bản, và cảm thức thẩm mỹ Nhật Bản cũng đi vào chiều sâu huyền bí của tâm linh.
Mối liên hệ giữa “mono no aware” đến “yugen” là minh chứng cụ thể cho sự vận động
này.
Nếu hình dung các khái niệm “irogonomi”, “mono no
aware” và “yugen” lần lượt hiện ra nối tiếp nhau trên một trục thời gian từ thời
cổ đại đến thời trung đại trong lịch sử văn hóa Nhật Bản, mối liên hệ ý nghĩa
giữa các khái niệm này, như đã phân tích ở các phần trên, cho thấy ý thức thẩm
mỹ Nhật Bản đã vận động từ quan niệm cổ sơ của dân tộc – về sự lý tưởng gắn với
việc rung động trước cái đẹp và sở hữu cái đẹp – đến cảm thức về vẻ đẹp thẳm
sâu, huyền ảo nảy sinh từ cái tâm trống rỗng và tĩnh lặng do thấu suốt lẽ vô
thường. Tiến trình vận động này diễn ra theo hướng dung hợp giữa tính đặc thù của
văn hóa Nhật Bản ở giai đoạn còn thuần phác, đơn sơ với cảm thức chung của nhân
loại về sự mong manh, bất toàn của đời sống và cái đẹp để vươn đến trạng thái
trực cảm về cái đẹp trừu tượng và tinh tế vượt quá khả năng diễn đạt của ngôn
ngữ thông thường.
Dĩ nhiên là những khái niệm nói trên tuy lần lượt giữ
vị trí trung tâm trong ý thức thẩm mỹ Nhật Bản ở từng giai đoạn nhưng không hề
loại trừ lẫn nhau. Tuy nội hàm ý nghĩa hay hình thức ngôn ngữ có thay đổi theo
thời gian nhưng cảm thức thẩm mỹ thể hiện qua các khái niệm này vẫn tiếp tục tồn
tại, vận động và biểu lộ dưới nhiều hình thức trong đời sống văn hóa Nhật Bản
cho đến tận ngày nay. Trong bối cảnh toàn cầu hóa về quan niệm văn học và
phương thức sáng tác, các nhà nghiên cứu có hiểu biết sâu rộng về ý thức thẩm mỹ
Nhật Bản truyền thống và sự tinh tế trong cảm nhận văn chương vẫn có thể nhận
ra những biểu hiện của “irogonomi”, “mono no aware” hay “yugen” trong nhiều tác
phẩm của văn học Nhật Bản đương đại.
Tài liệu tham khảo
1.
鈴木日出男,
(Suzuki Hideo) (2003),「源氏物語の虚構論」(Bàn về hư cấu trong Genji monogatari), 東京大学出版会.
2.
岡野弘彦
(Okano Hirohiko) (2009),「日本の心と源氏物語」(Tâm hồn Nhật Bản và Genji monogatari), 思文閣出版.
3.
長谷川政春 (Hasegawa Masaharu), 『源氏物語<いろごのみ>の思想』(Tư tưởng “irogonomi” trong Genji monogatari), in trong 「源氏物語と文学思想―研究と資料・古代文学論叢第十七輯」(Genji
monogatari và tư tưởng văn học – tập tư liệu và các bài nghiên cứu, tập
17), 武蔵野書院, 2008.
4.
本居宣長 (Motoori Norinaga), 「源氏物語玉の小櫛」巻二 (Genji
monogatari – Chiếc lược cài nạm ngọc, chương 2), in trong「批評集成・源氏物語」 第2巻 (Tuyển tập phê bình Genji monogatari, tập 2), ゆまに書房, 1999.
南波浩 Namba Hiroshi (1971),「物語文学」(Văn học
monogatari), 三一書房.
[1] Chúng
tôi mượn từ “tái sinh” (再生)
của nhà nghiên cứu Hasegawa Masaharu khi nói đến Orikuchi Shinobu trong bài viết
『源氏物語<いろごのみ>の思想』(Tư tưởng “irogonomi” trong Genji monogatari), in trong 「源氏物語と文学思想―研究と資料・古代文学論叢第十七輯」(Genji monogatari và tư tưởng văn học – tập
tư liệu và các bài nghiên cứu, tập 17), 武蔵野書院, 2008.
[2] Xem鈴木日出男, (Suzuki Hideo)
(2003),「源氏物語の虚構論」(Bàn về hư cấu trong Genji monogatari), 東京大学出版会; 岡野弘彦
(Okano Hirohiko) (2009),「日本の心と源氏物語」(Tâm hồn Nhật Bản và Genji monogatari), 思文閣出版 và 長谷川政春
(Hasegawa Masaharu), 『源氏物語<いろごのみ>の思想』(Tư tưởng “irogonomi” trong Genji monogatari), in trong 「源氏物語と文学思想―研究と資料・古代文学論叢第十七輯」(Genji monogatari và tư tưởng văn học – tập
tư liệu và các bài nghiên cứu, tập 17), 武蔵野書院, 2008.
[3] Xem長谷川政春
(Hasegawa Masaharu), 『源氏物語<いろごのみ>の思想』(Tư tưởng “irogonomi” trong Genji monogatari), in trong 「源氏物語と文学思想―研究と資料・古代文学論叢第十七輯」(Genji monogatari và tư tưởng văn học – tập
tư liệu và các bài nghiên cứu, tập 17), 武蔵野書院, 2008, tr. 9.
[4]
Dẫn theo Hasegawa Masaharu, tlđd, tr. 10.
[5]
Dẫn theo Hasegawa Masaharu, tlđd, tr. 10 – 11.
[7] 本居宣長
(Motoori Norinaga), 「源氏物語玉の小櫛」巻二 (Genji monogatari – Chiếc lược cài nạm ngọc,
chương 2), in trong「批評集成・源氏物語」 第2巻 (Tuyển tập phê bình Genji monogatari, tập 2), ゆまに書房, 1999, tr. 63.
[10]
Từ dùng trong thơ haiku để khơi gợi hình ảnh, cảm xúc về thiên nhiên
theo mùa.
[11]
鈴木日出男, (Suzuki Hideo)
(2003),「源氏物語の虚構論」(Bàn về hư cấu trong Genji monogatari), 東京大学出版会, tr. 17.