Con
đường phát triển của văn chương tự sự qua các thể loại
Theo
nghĩa rộng, tự sự là trình bày một nội dung bằng cách kết nối, xâu chuỗi các sự
kiện để truyền đạt đến độc giả hoặc khán thính giả. Cho nên tự sự có thể được thực
hiện bằng nhiều loại chất liệu như ngôn ngữ, hình ảnh, động tác biểu diễn, âm
thanh. Trong đời sống, hình thức và nội dung tự sự được thể hiện đa dạng, từ
ghi chép lịch sử, truyện kể dân gian đến diễn văn, phim ảnh, nhạc kịch v.v...
Nhưng ở đây, chúng tôi chỉ sử dụng thuật ngữ “tự sự” trong phạm vi nghệ thuật
ngôn từ, tức là văn chương tự sự dưới dạng ngôn ngữ nói hoặc ngôn ngữ viết.
Kể
và biểu đạt cảm xúc là hai hình thức cơ bản của nghệ thuật văn chương, xuất hiện
từ điểm khởi đầu và tồn tại, phát triển trong suốt hành trình của nền văn học
thế giới. Văn chương tự sự, do đó, có một bề dày lịch sử gồm nhiều giai đoạn,
và sự phong phú với nhiều thể loại khác nhau. Các giai đoạn và các thể loại này
lại không giống nhau trong những nền văn học của các cộng đồng người, nên thế
giới văn chương tự sự có thể ví như một bức tranh, hay một “tấm bản đồ” rộng lớn
và phức tạp mà ngày nay, e rằng cá nhân nào làm công việc nghiên cứu văn chương
cũng khó có thể bao quát và thấu suốt. Trong phạm vi tìm hiểu còn nhiều hạn chế
về tư liệu cũng như khả năng nghiên cứu, chúng tôi chỉ xin trình bày sơ lược về
các thể loại đánh dấu các giai đoạn chính trong tiến trình phát triển của văn
xuôi tự sự nói chung trên thế giới, qua khảo sát một số nền văn học được biết đến
tương đối rộng rãi ở phương Đông và phương Tây, và dựa vào đó để nhìn nhận,
miêu tả quy luật phát triển của hình thức tự sự trong nghệ thuật ngôn từ.
Như
đã được trình bày trong nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử văn học, văn
chương tự sự đã xuất hiện trong thời kỳ văn học dân gian ở nhiều cộng đồng người
khác nhau trên thế giới. Trong giai đoạn đầu tiên, khi con người còn cảm nhận
thế giới tự nhiên như thế lực linh thiêng, huyền bí và đáng sợ nhưng lại là thiết
yếu với sự sinh tồn, phát triển của cộng đồng, thì con người dùng trí tưởng tượng
kết hợp với tư duy còn hạn chế của mình để sáng tạo nên những câu chuyện về vũ
trụ, thần linh, hay để “kể” về sự hình thành của cộng đồng và vùng lãnh thổ mà
cộng đồng ấy đang sinh sống. Kết quả của hoạt động sáng tạo này là các loại thần
thoại, truyền thuyết và các loại truyện cổ tích có yếu tố siêu nhiên, hoang đường
như các truyện kể về thần tiên, quái vật, người khổng lồ v.v...
Trong
thế giới truyện cổ đa dạng và không kém thú vị này, chúng ta có thể thấy nhiều
mảng nội dung khác nhau, thể hiện những khía cạnh thu hút sự quan tâm và kích
thích óc tưởng tượng của con người thời cổ đại, mà nổi bật và phổ biến là các nội
dung như: tổ chức và hoạt động của thế giới thần linh; các vị thần gắn với nguồn
gốc và sự hình thành quốc gia/ dân tộc; giải thích về các hiện tượng thiên
nhiên phổ quát và có ảnh hưởng lớn đến đời sống con người; các vật tổ trong tín
ngưỡng vật linh; các bậc siêu phàm có công thành lập quốc gia, bảo vệ dân tộc,
chỉ dạy sinh kế cho người dân hoặc sáng lập các hình thức tín ngưỡng, tôn giáo
v.v... Từ các nội dung trên, có thể thấy ba yếu tố trụ cột tạo nên thế giới sơ
khai, huyền ảo của các truyện cổ này là tự nhiên, thần linh và tôn giáo, trong
mối quan hệ với con người thời cổ đại. Điều đó không có gì khó hiểu vì thần
linh là những “khoảng trắng” trong tư duy và nhận thức của con người trên hành
trình lý giải và khám phá tự nhiên, còn tín ngưỡng, tôn giáo thì sinh ra từ
quan hệ tương tác giữa con người với tự nhiên, và cũng là sự kết nối giữa con
người với thần linh, trong quan niệm cổ sơ của người nguyên thủy.
Trong
khi những nội dung nói trên có một giới hạn tương đối trong một giai đoạn sơ
khai của nhận thức thì xã hội con người không ngừng phát triển, đời sống của cộng
đồng cũng như của cá nhân mỗi người ngày càng phong phú, nên hình ảnh con người
ngày càng xuất hiện nhiều hơn và có vị trí quan trọng hơn trong văn chương tự sự,
khi con người ngày càng say mê khám phá đồng thời nảy sinh nhiều mong ước, ưu
tư về môi trường xã hội và chính bản thân mình. Do đó, bên cạnh thần thoại nói
về ý chí, quyền lực hay hành động của thần linh thì truyền thuyết là thể loại
truyện kể có trọng tâm là hành động của con người. Rộng hơn nữa, cổ tích là
hình thức tự sự có chủ đề và nội dung phong phú, bao gồm cả những truyện kể gần
giống như thần thoại hay truyền thuyết và một bộ phận không nhỏ có khuynh hướng
gắn với đời sống con người, chẳng hạn nhiều câu chuyện phản ánh quan niệm đạo đức
hoặc những ước mơ, quan hệ trong gia đình, xã hội.
Nếu
như bầu không khí thần linh, huyễn ảo đậm đặc trong thần thoại và trong những
truyện kể có tính chất giao thoa giữa các thể loại thần thoại, truyền thuyết và
cổ tích thì trong thể loại sử thi, không khí này được pha loãng bởi hành động của
con người và những sự kiện, mối quan hệ của xã hội loài người. Những người anh
hùng, nhân vật trung tâm của các sử thi, là một kiểu hình tượng dung hợp giữa
con người và thần thánh, nhưng tinh thần chủ đạo của sử thi là ngợi ca những
chiến tích có ý nghĩa trong đời sống văn hóa của con người, thay vì thể hiện sự
sùng bái thần linh hay thiên nhiên huyền bí. Cũng là một thể loại tự sự xuất hiện
từ rất sớm trong lịch sử văn học nhưng sử thi mang dấu ấn của mỗi quốc gia, cộng
đồng hay mỗi nền văn hóa rõ rệt hơn các thể loại truyền thuyết, cổ tích hay thần
thoại.
Các
tác phẩm sử thi trong mỗi nền văn học cũng có sự khác biệt tương đối lớn trên
nhiều phương diện như thời điểm ra đời, quy mô tác phẩm, đề tài câu chuyện,
hình thức tồn tại và lưu truyền v.v... Vì vậy nếu xét trên phạm vi toàn thế giới
thì sử thi là một phạm trù phức tạp và tương đối mơ hồ. Theo nghĩa hẹp của từ
“epic” trong tiếng Anh thì sử thi là loại thơ tự sự về chiến công, kỳ tích hoặc
những sự kiện xoay quanh nhân vật chính là những người anh hùng, có ý nghĩa
quan trọng đối với một quốc gia hay một nền văn hóa dân tộc. Nếu hiểu theo
nghĩa này thì thể loại sử thi chỉ bao gồm những trường ca được sáng tác vào thời
kỳ cổ đại của các nền văn học mà tiêu biểu là các đại sử thi được biết đến trên
toàn thế giới như sử thi Gigamesh của
văn học Lưỡng Hà, Mahabharata và Ramayana của Ấn Độ, Iliad và Odyssey của văn
học Hy Lạp, Pharsalia của văn học La
Mã, Beowulf của vùng văn hóa
Scandinavia, sử thi Pentaur của văn học
Ai Cập v.v... Những tác phẩm sử thi thuộc loại này cũng khác nhau về nhiều mặt,
chẳng hạn như thời điểm ra đời cách nhau khá xa (từ thiên niên kỷ thứ 2 trước
Công nguyên như Gigamesh đến khoảng
thế kỷ VIII – XI sau Công nguyên như Beowulf),
hình thức tồn tại và lưu truyền đa dạng (có thể được truyền miệng, được khắc
trên gỗ, đá hay được viết trên giấy), nhưng nói chung đều là những truyện kể bằng
thơ về các anh hùng, các sự kiện lịch sử ở thời đại cổ xưa, và ít nhiều pha lẫn
sắc màu huyền thoại.
Là
một thể loại quan trọng trên con đường phát triển của văn chương tự sự, sử thi
có hai vấn đề cần lưu ý như sau:
Một
là, trong khi thần thoại, cổ tích và truyền thuyết đều là sản phẩm của cộng đồng
thì một bộ phận trong thể loại sử thi là các công trình có tác giả cụ thể, chẳng
hạn Mahabharata của Veda Vyasa, Ramayana của Valmiki, Iliad và Odyssey của Homer, Công việc
và ngày của Hesiod, Pharsalia của
Lucan v.v... Tuy có những trường hợp tác giả chỉ là “được gán cho”, và những
thông tin về tác giả ấy cũng chưa được xác định rõ ràng, nhưng ý thức về tác giả,
dù chỉ được thể hiện qua quan niệm hay sự gán ghép của cộng đồng, cũng thể hiện
một bước phát triển của văn chương tự sự.
Hai
là, loại sử thi hiểu theo nghĩa hẹp nói trên xuất hiện nhiều và có các tác phẩm
lớn, điển hình trong văn học phương Tây, Ấn Độ, Ả rập, Lưỡng Hà, Ai Cập, nhưng
lại ít được ghi nhận trong các nền văn học Đông Á. Nói cách khác, nếu lấy kiểu
sử thi nói trên làm chuẩn mực của thể loại thì văn chương tự sự Đông Á hiếm có
loại “đại sử thi” đúng nghĩa. Ngoài Jewang
ungi của Triều Tiên là tác phẩm thơ kể chuyện lịch sử đất nước từ thời vua
Dangun huyền thoại đến thời vua Chungnyeol ở thế kỷ XIII, truyện Reamker ở Campuchia mô phỏng sử thi
Ramayana và các sử thi nói về cội nguồn dân tộc của các tộc người thiểu số ở
Trung Quốc, Việt Nam và các nước khác ở Đông Nam Á, thể loại sử thi ở khu vực
này hầu như chỉ gồm những truyện kể lịch sử bằng thơ hoặc văn xuôi.
Nội
dung của các truyện này thường kể về các vị vua hiền minh, có công lớn trong việc
xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, về các bậc tiền bối đã dạy người dân
trong nước làm nông nghiệp hay có công trong việc khai sinh và phát triển các
ngành nghề. Loại truyện kể này có thể xem là một hình thức pha trộn giữa truyền
thuyết và lịch sử, có thời điểm xuất hiện và lịch sử phát triển khác nhau trong
mỗi nền văn học nhưng thường thuộc về giai đoạn từ cổ đại sang trung cổ. Đặc biệt
ở một nền văn học lớn và lâu đời như văn học Trung Quốc, thì truyện kể huyền sử
là cả một thế giới phong phú, từ các truyền thuyết về Thần nông, Bàn Cổ đến Sử ký của Tư Mã Thiên hay Tả truyện, và ở một số phương diện, các
truyện kể này còn được tiếp tục phát triển trong hình thức tiểu thuyết chương hồi
về lịch sử. Ở Nhật Bản thì thể loại này chủ yếu là những truyện kể mang màu sắc
huyền thoại được tập hợp trong Kojiki,
như một phần nối tiếp của những thần thoại về sự hình thành quốc gia, dân tộc,
với số lượng không nhiều và cũng không có những pho truyện trường thiên có quy
mô lớn. Ở Triều Tiên cũng có hình thức xen lẫn từ thần thoại, truyền thuyết đến
truyện kể lịch sử trong tập Samguk Yusa
(Tam quốc di sự), kể về lịch sử Triều Tiên trong thời kỳ tồn tại ba vương quốc.
Còn nếu quan niệm sử thi chỉ đơn giản là “truyện kể lịch sử” thì có thể kể thêm
vào thể loại này Heike monogatari của
Nhật Bản, là truyện kể trường thiên ở dạng văn xuôi về cuộc xung đột của hai
dòng họ quý tộc lớn, xảy ra vào cuối thế kỷ XII. Còn truyện thơ không có tầm
vóc của lịch sử dân tộc mà chỉ nói về một nhân vật nào đó của cộng đồng, hoặc
là truyện thơ về tôn giáo và được truyền miệng trong dân gian thì xuất hiện khá
nhiều ở Việt Nam và cũng có mặt ở một số nền văn học Đông Nam Á.
Từ
những nội dung trên, có thể thấy rằng ở dòng văn chương tự sự về lịch sử các
dân tộc, về những nhân vật có công lao to lớn và được cộng đồng ngưỡng mộ, tôn
thờ, dấu ấn của các nền văn hóa ở các khu vực khác nhau trên thế giới bắt đầu
được thể hiện tương đối rõ. Ở những vùng thường xảy ra các cuộc chiến tranh tôn
giáo hay chiến tranh giữa các cộng đồng người, hoặc đã từng có những cuộc di cư
ồ ạt với quy mô lớn thì những điều này được phản ánh vào các đại sử thi, với
tinh thần ngợi ca chiến tích của các anh hùng, vua chúa trong đời sống tôn giáo
hay thế tục. Trong khi đó, ở khu vực mà cư dân chủ yếu sống bằng kinh tế nông
nghiệp và có đời sống ổn định, ít di chuyển thì khó hình thành nên các đại sử
thi mà chỉ có những truyện kể lịch sử phản ánh niềm tin, sự tôn kính của người
dân đối với các nhân vật lịch sử hay các vị tổ nghề đã giúp đỡ cộng đồng về
sinh kế.
Sự
khác biệt về đời sống, văn hóa các dân tộc dẫn đến phân hóa đa dạng các hình thức
của văn chương tự sự thể hiện rõ rệt hơn khi sáng tác văn chương ngày càng đi
sâu hơn vào cuộc sống con người, và tâm thức sùng bái tự nhiên hay niềm tin tôn
giáo chỉ còn là những đường nét, dấu ấn nhất định trong nội dung tác phẩm. Đó
là hiện thực về sự phát triển của văn xuôi tự sự mang tính thế tục, chủ yếu thuộc
về thời kỳ trung đại trong các nền văn học của các nước trên thế giới, cho đến
khi có sự ra đời của tiểu thuyết hiện đại như một thể loại tự sự nòng cốt của
văn tự sự ngày nay.
Nói
cách khác, khi văn chương tự sự gần như thoát khỏi bầu không khí huyền thoại và
tách biệt với những ghi chép lịch sử thuần túy, thì hình thức này phát triển
theo nhiều hướng, nhiều kiểu và tạo ra nhiều thể loại khác nhau trong các nền
văn học. Cụ thể như ở châu Âu có thể loại romance, chủ yếu gồm tiểu thuyết hiệp
sĩ và tiểu thuyết về tình yêu lãng mạn của giới quý tộc cung đình, phổ biến trong
thời trung cổ và thời Phục hưng. Ở Trung Quốc thì có nhiều loại truyện kể, chủ
yếu là loại truyện kể dật sự, được gọi chung là “tiểu thuyết” – tức là tiểu
thuyết cổ điển, gồm cả hai nhánh là tiểu thuyết bạch thoại và tiểu thuyết văn
ngôn – được ghi chép hoặc sáng tác từ thời Đường đến trước cách mạng Tân Hợi, đặc
biệt là tiểu thuyết chương hồi thời Minh – Thanh. Ngoài ra còn có một thế giới
đa dạng các thể loại tự sự hư cấu và phi hư cấu, phản ánh nhiều phương diện của
đời sống con người đồng thời bày tỏ những quan điểm, cảm nghĩ của người viết
trong nhiều chủ đề khác nhau, xuất hiện trong các nền văn học ở khắp nơi trên
thế giới. Đặc điểm chung của văn chương tự sự kiểu này là sự phản ánh con người
và xã hội ở nhiều khía cạnh, nhiều quan điểm. Dù có nhiều tác phẩm lấy cảm hứng
hay cốt truyện từ thần thoại, truyền thuyết, nhiều tác phẩm kể về những biến cố
lịch sử hay nhiều câu chuyện miêu tả yêu quái, thần ma thì tinh thần chủ đạo,
hay mục đích tối thượng của tác phẩm tự sự ở giai đoạn này vẫn là trình bày những
vấn đề của đời sống con người và cách nhìn, cách đánh giá của người kể về những
vấn đề được trình bày, cũng như về con người và xã hội nói chung. Trong các tác
phẩm thuộc loại tiểu thuyết hiệp sĩ của phương Tây và tiểu thuyết giảng sử, tiểu
thuyết anh hùng của Trung Quốc, nhân vật chính vẫn là những người anh hùng thực
hiện được những kỳ tích đáng khâm phục, thậm chí là những chiến công phi thường.
Nhưng khác với nhân vật anh hùng trong sử thi, nhân vật anh hùng trong tiểu
thuyết trung đại được miêu tả như những con người cụ thể chứ không phải là cá
nhân đại diện mang ý chí và những ước vọng của cả một cộng đồng, hay phải thực
hiện những sứ mệnh có liên quan mật thiết đến sự tồn vong của cộng đồng, dân tộc
ấy. Cho nên, nhân vật đó được đánh giá qua tính cách và hành động cá nhân, và
có thể được miêu tả qua cái nhìn nghiêm túc hay hài hước, chứ không nhất thiết
phải là hình tượng được tôn kính và ngưỡng vọng.
Tất
nhiên không có thể loại tự sự nào, kể cả tiểu thuyết hiện đại, lại có một khuôn
mẫu chặt chẽ về hình thức tác phẩm, theo kiểu như thể thức trình bày của một loại
văn bản hành chính. Và cũng không có thể loại nào là một lát cắt dứt khoát,
hoàn chỉnh của một giai đoạn phát triển nhất định trong lịch sử văn chương tự sự.
Điều đó một mặt gây trở ngại cho những ai muốn trình bày lịch sử phát triển của
hình thức tự sự một cách khúc chiết, rành mạch với những phân đoạn và những dạng
thức tự sự rõ ràng, cụ thể. Nhưng mặt khác, thực tế này lại giúp chúng ta thấy
được, qua một thể loại hoặc một giai đoạn nào đó của lịch sử văn học, những biểu
hiện của sự phát triển thể loại ấy và sự phát triển của hình thức văn tự sự nói
chung. Từ đó, nếu quan sát nhiều thể loại qua các giai đoạn khác nhau của tiến
trình văn chương tự sự, có thể rút ra một số nội dung có giá trị phổ quát trong
lịch sử phát triển của hình thức tự sự ở các nền văn học trên toàn thế giới như
sau:
Từ
thần thoại, truyền thuyết đến các loại tiểu thuyết thời trung đại, văn tự sự đã
phát triển theo hướng từ cái siêu nhiên, huyền bí đến thế giới của con người và
xã hội đời thường; từ sản phẩm của trí tưởng tượng và tư duy tập thể đến thành
quả sáng tạo có dấu ấn của tư tưởng và phán đoán cá nhân; từ việc phản ánh hoàn
cảnh sống và ước vọng của cộng đồng, dân tộc đến việc miêu tả những mối quan hệ
giữa các cá nhân trong một phạm vi nhất định; từ việc tin những chuyện hoang đường
là có thực đến việc nhìn nhận và phát triển nghệ thuật hư cấu, sáng tạo; từ thái
độ sùng kính, tôn thờ cái thiêng liêng đến tâm lý thưởng thức và phê phán
v.v...
Trong
xu hướng phát triển nói trên, thể loại sử thi có thể được xem là hình thức
trung gian, khi văn chương tự sự đang ở bước quá độ từ thế giới của thần linh,
tôn giáo đến thế giới của con người thế tục. Rồi cũng với cách thức như vậy, ở
giai đoạn kế tiếp, nghệ thuật tự sự lại phát triển từ cốt truyện đơn giản sang
phức tạp, từ tường thuật sự kiện sang miêu tả tâm lý, từ tinh thần quý tộc sang
sự phổ biến đại chúng, từ khuôn khổ sang tự do, từ tính cụ thể sang tính điển
hình v.v... để hình thành nên tiểu thuyết hiện đại. Vì thế, như Maurice Z.
Shroder tổng kết, “Nếu ta định nghĩa “thần
thoại” trong một phạm vi giới hạn hơn để nó tiếp cận với thể loại sử thi, thì
có thể xem tiểu thuyết là sử thi của thế giới hiện đại (...). Tuy nhiên, xác nhận
tổng quan về lịch sử văn học đề xuất rằng tiểu thuyết chắc chắn được khởi nguồn
từ hình thức tiền thân gần nó nhất, là thể loại romance thời trung cổ và thời
Phục hưng, hơn là từ thể loại sử thi”[1].
Là
điểm đến của con đường phát triển văn chương tự sự từ cổ đại đến hiện đại, tiểu
thuyết, hiểu theo nội hàm của khái niệm “novel” trong tiếng Anh, là một thể loại
tự sự tuy phổ biến, gần gũi với độc giả nhưng lại phức tạp về đặc trưng đến mức
khó tìm được cho nó một định nghĩa thật sự rõ ràng, chặt chẽ. Tuy nhiên, ở
trong một phạm vi nào đó, có thể đưa ra những đặc trưng quan trọng của thể loại
này. Điều đó có nghĩa là, trên thực tế có nhiều tác phẩm không mang tất cả đặc
trưng của thể loại nhưng vẫn được xem là tiểu thuyết. Dù vậy, những đặc trưng
này vẫn cần được xác định để có thể phân biệt, một cách tương đối, thể loại tiểu
thuyết với các thể loại khác trong thế giới phức tạp của văn chương tự sự, từ
đó có thể tìm hiểu những giá trị thẩm mỹ đặc thù của thể loại này, hoặc như
cách làm của một số nhà phê bình, nhận diện những hình thức mang tính đột phá,
vượt khung thể loại vẫn được gọi là “phản tiểu thuyết”.
Các
công trình lý luận về tiểu thuyết thường đề xuất một số đặc trưng quan trọng của
thể loại. Trên cơ sở tham khảo nhiều quan điểm, lý thuyết của các nhà lý luận
được trình bày trong các công trình The
Theory of the Novel (Philip Stevick chủ biên) và Theory of the Novel (Michael McMeon chủ biên), chúng tôi rút ra một
số đặc trưng chính của thể loại tiểu thuyết, gồm: (1) là hình thức văn xuôi tự
sự; (2) là kết quả của nghệ thuật hư cấu; (3) tác phẩm có độ dài tương đối với
cấu trúc phức tạp; (4) có tính hiện thực, phản ánh đời sống đa diện và linh hoạt;
(5) được kể và tiếp nhận trong tâm thức hiện thời; (6) là tự sự về con người cá
nhân; (7) có tính đại chúng, phổ biến với mọi tầng lớp xã hội; (8) có giá trị
thẩm mỹ.
Tất
nhiên, các nhà lý luận về tiểu thuyết, trong một hoàn cảnh luận thuyết nhất định,
có thể chỉ đề cập đến một vài đặc trưng trong tổng số 8 đặc trưng nói trên, và
cũng có thể đưa ra những đặc trưng mà ở đây chưa nói đến, bởi tiểu thuyết vốn
là một thể loại phức tạp và linh hoạt, như nhận xét của Philip Stevick: “Nó (tức tiểu thuyết) có đủ sự chặt chẽ như một thể loại đòi hỏi sự
thấu suốt mang tính phức hợp của phê bình theo hướng hình thức luận và lịch sử
văn hóa để hiểu được truyền thống của nó, và nó đủ sinh động để tồn tại qua mọi
lý thuyết, cho dù lý thuyết là kiểu lý thuyết được xây dựng rất tồi”[2].
Điều
thú vị là, nếu nhìn kỹ vào tiến trình phát triển của văn chương tự sự qua các
thể loại, có thể thấy rằng tính phức tạp và linh hoạt của tiểu thuyết là sự biến
đổi và tích hợp các phạm trù cơ bản làm nên nghệ thuật tự sự, thường là các phạm
trù đối lập nhau nhưng lại không tách rời nhau như hư cấu / hiện thực, cá biệt
/ điển hình, chặt chẽ / tự do, cá nhân / tập thể, siêu phàm / thế tục, tinh hoa
/ đại chúng v.v... Ở đây, để làm rõ đặc trưng của tiểu thuyết và để có cơ sở nhận
định về giá trị của các tác phẩm có đặc điểm thể loại gần với tiểu thuyết,
chúng tôi chỉ nói đến mấy cặp phạm trù quan trọng với các ý sau:
Cặp
phạm trù hư cấu / hiện thực nói lên những vấn đề cơ bản của nghệ thuật tự sự,
mà đỉnh cao là thể loại tiểu thuyết, cho nên cũng là cặp phạm trù căn bản xuyên
suốt tiến trình phát triển của văn chương tự sự. Ở giai đoạn thần thoại, người
ta tưởng tượng ra những câu chuyện hoang đường và tin rằng điều ấy là có thực.
Bước sang thế giới của sử thi thì có sự pha trộn giữa hiện thực lịch sử và những
chi tiết tưởng tượng, hư cấu. Tình trạng này tiếp tục tồn tại trong các thể loại
nối tiếp sử thi như truyện truyền kỳ ở Đông Á, tiểu thuyết thời trung cổ ở
phương Tây và tiểu thuyết chương hồi ở Trung Quốc, nhưng có sự biến đổi dần dần
theo hướng tăng tính hiện thực trong nội dung câu chuyện, đồng thời phát triển
nghệ thuật hư cấu để làm cho truyện kể có nhiều tình tiết hấp dẫn hơn. Điều đó
có nghĩa là, theo con đường của nghệ thuật tự sự, con người tìm kiếm tính hiện
thực, chính xác hơn là truy cứu những vấn đề của hiện thực, bằng phương thức hư
cấu trên chất liệu ngôn từ. Hành trình này đạt đỉnh cao ở nghệ thuật tiểu thuyết,
khi hiện thực trong tiểu thuyết là không phải là hiện thực “trần trụi” từ đời sống
bên ngoài, mà là một kiểu hiện thực đã được tiểu thuyết gia “xử lý” bằng cách
điển hình hóa, với sự trợ giúp của kinh nghiệm, trí tưởng tượng và tầm tư tưởng
cá nhân. Cho nên hiện thực trong tiểu thuyết là hiện thực theo cách mà nó diễn
ra trong nghệ thuật miêu tả của tác giả và trong sự hình dung của người đọc, chứ
không phải là hiện thực theo nhận biết thông thường. Về tính “lắt léo” của hiện
thực kiểu này trong nghệ thuật tiểu thuyết, José Ortega và các tác giả của bài
viết “The Nature of the Novel” phát biểu: “Nếu
chúng ta xem xét kỹ hơn quan điểm của mình về hiện thực, có lẽ chúng ta sẽ thấy
mình quan niệm hiện thực không phải là những gì xảy ra thật sự, mà là một cách
xảy ra nào đó quen thuộc với mình”, cho nên “Trong tiểu thuyết, sự miêu tả thu hút chúng ta chính là vì chúng ta
không thật sự quan tâm đến những gì được miêu tả. Chúng ta bỏ qua những khách
thể đặt ra trước mắt mình để hướng sự chú ý đến cách thức mà khách thể ấy được
trình bày trước chúng ta”[3].
Nói ngắn gọn, hiện thực trong tiểu thuyết là hiện thực của hư cấu. Những gì mà
tiểu thuyết gia tìm kiếm trong quá trình sáng tạo, hay những gì vẫy gọi người đọc
đến với tiểu thuyết, là hiện thực được hư cấu chứ không phải hiện thực của đời
thường.
Mối
quan hệ giữa hư cấu và hiện thực trong nghệ thuật tiểu thuyết là cơ bản và quan
trọng vì nó ảnh hưởng, chi phối mối quan hệ và sự biến đổi các yếu tố trong nhiều
cặp phạm trù khác, mà gần gũi nhất là cặp phạm trù chặt chẽ / tự do và cá biệt
/ điển hình.
Mối
quan hệ giữa chặt chẽ và tự do thể hiện sự đối lập nội tại trong đặc trưng của
thể loại tiểu thuyết. Trong khi đòi hỏi một cấu trúc chặt chẽ, có tính thuyết
phục cao với các tình tiết được triển khai mạch lạc, tiểu thuyết lại là một thể
loại cho phép nhà văn được tự do về nhiều phương diện: miêu tả thời gian thì có
thể kéo dài, rút ngắn, đảo ngược; miêu tả không gian thì có thể mở rộng, thu hẹp,
dịch chuyển tự do; về tình tiết hay nhân vật đều có thể thêm bớt tùy ý và tự do
lựa chọn v.v... sao cho tác phẩm đạt hiệu quả thẩm mỹ cao. Nói như Joseph
Conrad thì: “Một lợi thế của tiểu thuyết
gia, so với những người làm việc trong các lĩnh vực tư tưởng khác, là sự tự do
– tự do diễn đạt và tự do bày tỏ những niềm tin sâu sắc nhất, đó là sự khích lệ
xứng đáng dành cho anh ta trong sự đọa đày khổ nhọc vì ngòi bút”[4].
Như vậy, tính tự do của tiểu thuyết là tự do hư cấu của nhà văn, còn tính chặt
chẽ của tiểu thuyết là điều kiện để tác phẩm có giá trị hiện thực.
Bên
cạnh đó, cái cá biệt và cái điển hình cũng thể hiện quá trình phát triển của
văn chương tự sự trên đường đến thể loại tiểu thuyết. Do đó, tính cá biệt và
tính điển hình được một số nhà nghiên cứu lấy làm căn cứ để phân biệt các thể
loại. Chẳng hạn trong bài viết “The Nature of the Novel”, các tác giả cho rằng “nhân vật của sử thi không phải là đại diện của
các mẫu người mà là những con người độc đáo”, còn “nhân vật của tiểu thuyết thì mang tính điển hình và không có chất thơ,
họ không được lấy ra từ thần thoại, vốn là yếu tố hay bầu không khí thẩm mỹ, mà
từ trên đường phố, từ thế giới vật chất, từ môi trường sống của tác giả và độc
giả”[5].
Từ đó có thể hiểu rằng, thay cho những nhân vật độc đáo, cá biệt của thể loại sử
thi, nhân vật trong tiểu thuyết hiện đại là hình tượng điển hình cho những mẫu
người trong đời sống. Nhờ vậy, tiểu thuyết có thể nói về cuộc đời rộng lớn, về
thế giới phức tạp của con người chỉ qua hình ảnh của một vài nhân vật. Đó cũng
là con đường đạt đến giá trị hiện thực của thể loại này.
Trong
tiến trình phát triển từ thần thoại đến tiểu thuyết hiện đại, có nhiều thể loại
tự sự ở các nền văn học khác nhau trên thế giới mang những đặc điểm của thể loại
trung gian giữa sử thi và tiểu thuyết, mà romance của văn học phương Tây hay tiểu
thuyết chương hồi của Trung Quốc là những ví dụ tiêu biểu. Như vậy, các thể loại
tự sự như sử thi và romance hay tiểu thuyết thời trung đại, do nằm ở vị trí
trung gian trong các giai đoạn phát triển của văn chương tự sự, có nhiều yếu tố
gây khó khăn cho nhà nghiên cứu khi cần xác định đặc điểm thể loại của một tác
phẩm cụ thể. Nhưng điều quan trọng là, hơn cả trường hợp vừa nêu, có tác phẩm vừa
mang tính chất của sử thi, vừa có đặc điểm của tiểu thuyết trung đại và hiện đại,
làm cho vấn đề thể loại càng trở nên phức tạp hơn, đến mức khó tìm ra một danh
từ chỉ thể loại phổ biến và thỏa đáng, để sử dụng thống nhất trên phạm vi quốc
tế. Genji monogatari của Nhật Bản là
một trường hợp như vậy. Tuy nhiên, trước khi đi vào vấn đề thể loại của tác phẩm
cụ thể, chúng tôi xin trình bày ngắn gọn về monogatari – một thể loại tự sự
trong văn học Nhật Bản – với nỗ lực làm rõ hơn vị trí của tác phẩm, về mặt thể
loại, trong tiến trình lịch sử và các mối quan hệ giữa các hình thức của văn
chương tự sự nói chung.
Monogatari trong “bản đồ” văn chương tự sự Nhật Bản và
thế giới
Như
đã trình bày ở phần trên, trong tiến trình vươn ra khỏi không gian thần thoại
và thâm nhập sâu vào đời sống con người, văn chương tự sự đã phát triển ngày
càng phức tạp về cả nội dung và hình thức, trong bối cảnh văn hóa – xã hội của
nhiều cộng đồng dân tộc khác nhau, do đó có sự hình thành nhiều thể loại tự sự
khác nhau trong các nền văn học. Đặt tất cả các thể loại tự sự bên cạnh nhau rồi
chỉ ra những điểm giống và khác nhau hay làm rõ mối quan hệ giữa chúng sẽ là một
công việc khó khăn, phức tạp mà đề tài nghiên cứu này không thể đảm đương.
Trong phần này, chúng tôi chỉ trình bày những đặc điểm của thể loại monogatari
và mối quan hệ của thể loại này với các thể loại có mối quan hệ gần gũi hoặc có
nét tương đồng với nó, trong thế giới văn chương tự sự nói chung, nhưng chủ yếu
được nhìn ở cận cảnh văn học Đông Á và Nhật Bản.
“Mono”
trong tiếng Nhật là một danh từ chỉ sự vật nói chung. “Gatari” là kể lại, thuật lại. Do vậy “monogatari” có thể hiểu là
“truyện”,
“truyện kể”, hay là “kể lại
một câu chuyện”. Sự tồn tại của những câu chuyện thần
thoại và cổ tích bằng hình thức truyền miệng trong cộng đồng đã dẫn đến sự ra đời
của khái niệm “monogatari” trong thời kỳ khởi nguyên của văn học Nhật Bản, với
nghĩa rộng nhất là chuyện kể, hay là việc kể lại những câu chuyện về sự vật, sự
việc. Theo tư liệu nghiên cứu về lịch sử phát triển của thể loại monogatari thì
trước khi có những truyện kể phổ biến, có cấu trúc hoàn chỉnh và còn được lưu
truyền đến ngày nay như Taketori monogatari
hay Ise monogatari, trong tiếng Nhật
còn có cách gọi “katarigoto” – nghĩa là “những chuyện được kể” – để chỉ chung
các loại truyện kể dân gian như thần thoại, cổ tích hay truyền thuyết[6].
Về mặt ngôn ngữ, cơ sở hình thành
và phát triển của thể loại này là việc sáng lập hệ văn tự kana, sau một thời gian người Nhật tiếp thu Hán tự của Trung Hoa để
ghi âm tiếng Nhật. Sự xuất hiện của chữ kana
làm cho cách diễn đạt của ngôn ngữ Nhật Bản trong sáng tác văn học trở nên mềm
mại hơn, và nhờ đó những hình thức sáng tác văn học dùng chữ kana ngày càng phát triển phong phú và đạt
được nhiều thành tựu quan trọng. Trong
thế giới văn học kana, bên cạnh sự phát triển của dòng thơ quốc âm waka với ý tứ ngày càng sâu sắc
nhờ sử dụng các phép tu từ là
sự xuất hiện của những thể loại văn
xuôi mới, trong đó monogatari có thể được xem là một thể loại trung tâm,
một hình thức truyện kể
có lịch sử tồn tại lâu dài với nhiều tác phẩm lớn.
Về mặt nội dung, có thể nói
monogatari ra đời trên cơ sở những câu chuyện được lưu truyền trong dân gian.
Những câu chuyện này có thể là chuyện hư cấu kể về những điều kỳ lạ, những tình
tiết không có thực trong đời sống, hoặc là những câu chuyện về một nhân vật, một
miền đất có thực nào đó (thường là những nhân vật thuộc tầng lớp quý tộc ở cung
đình và vùng phụ cận Kyoto). Trong giai đoạn đầu, monogatari thường có nội dung
là những truyền thuyết dân gian như Utsuho
monogatari (Truyện bộng
cây), Taketori monogatari (Truyện ông
già đốn tre) v.v..., nên thể loại này có thể được xem
như hình thức văn xuôi ghi chép lại những câu chuyện cổ trong kho tàng văn học
truyền miệng. Tuy nhiên, tiến trình phát triển của monogatari cho thấy thể loại
này ngày càng thiên về hướng trần thuật những câu chuyện trong đời sống, với
nhân vật thường là những con người có thật trong lịch sử, sống ở một miền đất
nào đó và gắn với những sự kiện nào đó, điển hình là những tác phẩm như Ise monogatari (Truyện vùng Ise), Yamato monogatari (Truyện Yamato), Heichu monogatari (Truyện chàng Heichu) v.v... Về sau, loại truyện kể về xã hội
con người trở nên phong phú hơn hẳn so với loại ghi chép lại những truyền thuyết
dân gian, nên có thể phân chia loại truyện này thành các tiểu loại như truyện lịch
sử, truyện chiến tranh, truyện tình ái
v.v...
Tuy nói là truyện viết về những con
người, những sự việc có thật nhưng trên thực tế thì trong những truyện kể này
cũng có nhiều tình tiết hư cấu. Có tác phẩm thiên về hư cấu như Genji monogatari xuất hiện vào thế kỷ
XI. Ngoài ra, còn có những tác phẩm thuộc loại truyện truyền kỳ trong dòng “văn
học phù thế” phát triển cuối thời Edo (tức khoảng thế kỷ XVIII) như Ugetsu
monogatari (Truyện vũ nguyệt) của Ueda Akinari.
Ngày nay, khái niệm “monogatari”
trong văn học Nhật Bản thường được hiểu theo hai mức độ ý nghĩa. Theo nghĩa hẹp,
“monogatari” được xem là loại truyện cổ, ghi
chép những truyền thuyết dân gian hoặc kể về hành trạng, cuộc đời của một nhân
vật nào đó trong lịch sử. Theo nghĩa rộng, “monogatari” là thể loại truyện kể nói chung,
có nhân vật và cốt truyện, bao gồm cả truyện hư cấu, truyện lịch sử, truyện chiến
tranh hay truyện truyền kỳ. Nếu hiểu theo nghĩa này, monogatari là một thể loại
văn xuôi xuất hiện sớm và có quá trình phát triển lâu dài trong lịch sử văn học
Nhật Bản, từ thời Heian đến cuối thời Edo.
Thời Heian (794 – 1192) là thời kỳ phát triển
đỉnh cao của văn hóa cung đình, thời kỳ phồn thịnh nhất của giới quý tộc Nhật Bản.
Vì vậy, những tác phẩm văn học được sáng tác trong thời kỳ này mang có màu sắc
của văn hóa quý tộc với vẻ đẹp diễm lệ và cao nhã. Đồng thời, do một số nguyên
nhân về văn hóa xã hội nên đây cũng là thời kỳ có nhiều cây bút nữ tham gia vào
đời sống văn học, thường được gọi là “thời kỳ văn học nữ lưu”. Những tác phẩm
thuộc thể loại monogatari được sáng tác trong thời kỳ này cũng thể hiện rõ vẻ đẹp
của văn hóa quý tộc và sự mềm mại của văn chương nữ tính, đồng thời cũng là những
tác phẩm có nội dung phong phú và giá trị nghệ thuật cao. Đó là những tác phẩm
như Genji monogatari,
Eiga monogatari「栄華物語」(Truyện vinh hoa),
Hamamatsu Chunagon monogatari「浜松中納言物語」(Truyện
về quan
Chunagon
ở
Hamamatsu). Trong số đó, Genji
monogatari là tác phẩm đồ sộ nhất và thể hiện trình độ tư duy
nghệ thuật cao nhất, có thể xem là thành tựu đỉnh cao của thể loại monogatari,
và cũng là thành tựu đỉnh cao của văn xuôi Nhật Bản trong suốt nhiều thế kỷ,
trước khi xuất hiện tiểu thuyết hiện đại.
Cuối thời Heian, khi quyền lực
chính trị chuyển từ giai cấp quý tộc sang tầng lớp võ sĩ thì văn hóa cung đình
cũng dần dần nhường chỗ cho văn hóa bình dân, vẻ đẹp cao nhã trong văn chương
nghệ thuật được thay thế bằng phong cách thô mộc và mạnh mẽ. Đặc biệt, trong
giai đoạn đầu của thời kỳ trung đại, từ thế kỷ XII cho đến cuối thế kỷ XVI, đã
có nhiều cuộc nội chiến xảy ra do xung đột quyền lực giữa các dòng họ lớn. Vì vậy,
có những tác phẩm monogatari phản ánh thực tế lịch sử này, điển hình là Heike monogatari.
Heike
monogatari là một truyện kể xuất hiện vào khoảng
thế kỷ XIII, kể lại cuộc xung đột giữa hai dòng họ có thế lực là họ Taira và họ
Minamoto. Xét về quy mô thì Heike
monogatari cũng là một tác phẩm lớn (gồm 13
quyển), nhưng về tính nghệ thuật thì không thể sánh bằng Genji monogatari đã được viết trước đó
hai thế kỷ. Trong khi Genji monogatari là
một tác phẩm có trình độ tư duy nghệ thuật cao, thể hiện nhiều dấu ấn cá nhân về
tri thức, quan niệm nghệ thuật của người sáng tác thì Heike monogatari chỉ là một truyện chiến tranh bình
thường, kể về cuộc đời những con người có thật trong lịch sử với giọng văn kết
hợp giữa thể loại nhật ký và truyện răn đời mang màu sắc Phật giáo.
Có thể nói sau thời Heian, thể loại
monogatari vẫn tiếp tục tồn tại như một bộ phận của nền văn học Nhật Bản. Đặc
biệt, khi có sự xuất hiện của các loại hình nghệ thuật biểu diễn như “bunraku”, “nogaku”, “kabuki” thì cốt truyện, nhân vật và tình
tiết trong những tác phẩm monogatari thường được những nhà viết kịch bản sử dụng
để viết tuồng cho các vở diễn, vì thế monogatari càng trở nên phổ biến và gắn
bó với hình thức văn nghệ dân gian. Tuy nhiên, trong suốt thời trung đại, thể
loại này không có sự tiến bộ đáng kể nào được ghi nhận về tư duy nghệ thuật.
Cuối thời Edo, khoảng thế kỷ XVII - XVIII, theo dòng chảy của văn hóa
thị dân, văn chương tự sự
Nhật Bản bước vào một giai đoạn phát triển mới với hình thức tiểu thuyết mang tính giải trí, chủ yếu miêu
tả đời sống thị dân và thói đam mê hưởng thụ của con người.
Trong số các thể loại tự
sự
của thời kỳ này có thể loại “yomihon” là loại truyện truyền kỳ lấy cảm hứng
từ văn học cổ điển Nhật Bản và chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết bạch thoại Trung Quốc. Ueda Akinari được xem là nhà văn
tiêu biểu của thể loại này với tập Ugetsu monogatari「雨月物語」(Truyện vũ nguyệt), gồm 9 truyện ngắn
mang tính chất kỳ ảo. Những câu chuyện trong tập Ugetsu monogatari
là
truyện hư
cấu, với những tình tiết xung đột được xây dựng để nói lên “cái cố chấp và cứng
cỏi của lòng người” thông qua các nhân vật điển hình trong tác phẩm. Có thể
thấy Ugetsu monogatari
khác
hẳn với những truyện có tựa đề monogatari trong văn học cổ điển. Nó không phải
là một tác phẩm trường thiên mà chỉ là tập hợp một số truyện ngắn được viết theo
kiểu truyện truyền kỳ phổ biến ở các nước Đông Á thời hậu kỳ trung đại. Loại
truyện này tương đối gần với tiểu thuyết hiện đại, nhưng có đặc thù là sử dụng
nhiều chi tiết kỳ ảo tạo nên không khí ma quái trong câu chuyện và làm giảm đi
sự cảm nhận về tính hiện thực của tác phẩm. Cũng cần nói thêm rằng những tác phẩm
văn xuôi trong thời kỳ này không mang tựa đề “monogatari” đồng loạt như những
truyện kể thời cổ điển và tiền kỳ trung đại. Thay vào đó, có sự xuất hiện những tên gọi mới như “ukiyozoshi” hay “yomihon” được
dùng phổ biến để chỉ các tiểu
loại của hình thức tiểu thuyết thời Edo. Điều đó phản ánh sự
phát triển ý thức về thể loại tự
sự
thời hậu kỳ trung đại. Tuy nhiên, tựa đề Ugetsu
monogatari cho thấy “monogatari” vẫn được hiểu là truyện kể nói chung.
Nói
tóm lại, cùng với lịch sử phát triển lâu dài của văn chương tự sự ở Nhật Bản, từ
thời kỳ của truyền thuyết, thần thoại đến khi xuất hiện tiểu thuyết hiện đại kiểu
phương Tây, “monogatari” được sử dụng như một khái niệm chung để chỉ các hình
thức tự sự đã có mặt trong khoảng thời gian đó. Như vậy, thời gian tồn tại và
phát triển của monogatari tương ứng với thời gian xuất hiện nhiều thể loại tự sự
ở các nền văn học trên thế giới, như tiểu thuyết cổ điển ở Trung Quốc, romance ở
châu Âu, truyện truyền kỳ và truyện thơ Nôm ở Việt Nam, yadam (truyện dã sử tiếp nhận từ Trung Quốc) và thể loại hát kể p’ansori ở Triều Tiên v.v... Cho nên,
trong thế giới monogatari hàm chứa nhiều tiểu loại khác nhau của văn chương tự
sự, thể hiện những bước phát triển của nghệ thuật tự sự từ giai đoạn này sang
giai đoạn khác.
Để
xác định vị trí của thể loại monogatari trong thế giới văn chương tự sự nói
chung, dưới đây chúng tôi lần lượt so sánh, hoặc làm rõ mối quan hệ, giữa
monogatari với các thể loại gần gũi với nó về nội dung, niên đại hay thi pháp.
Như
đã nói qua ở phần trên, là hình thức tự sự đặc trưng của văn học Nhật Bản,
monogatari bắt nguồn từ truyện cổ của người Nhật và chịu ảnh hưởng, hay lưu giữ
dấu ấn, của hình thức tự sự cổ sơ này trong suốt tiến trình phát triển của thể
loại. Điều đó đã được nhiều nhà học giả Nhật Bản quan tâm và làm rõ trong các
công trình nghiên cứu về monogatari nói chung, hoặc về một tác phẩm nào đó thuộc
thể loại này. Theo đó, không chỉ có những tác phẩm monogatari khuyết danh mới
có mối liên hệ với thần thoại mà ngay cả trong tác phẩm có thể hiện trình độ tư
duy nghệ thuật cao như Genji monogatari,
cũng không khó tìm thấy những dấu vết của truyện cổ. Chẳng hạn, Suzuki Hideo,
trong công trình Genji monogatari
kyokoron『源氏物語虚構論』 (Bàn về nghệ
thuật hư cấu trong Genji monogatari)
đã chỉ ra sự tương đồng giữa nhân vật Hikaru Genji với hình tượng những vị thần
trong Kojiki. Hay trong tập sách Nihon no kokoro to Genji monogatari『日本の心と源氏物語』(Tâm hồn Nhật Bản và Genji monogatari), Okano Hirohiko cho rằng cuộc lưu đày của Genji
là một tình tiết giống như trong thần thoại, còn một số nhân vật nữ được miêu tả
trong tác phẩm thì mang dáng dấp của các vị nữ thần trong thần thoại tình yêu[7].
Còn theo nhận xét của nhà nghiên cứu Richard Bowring thì Genji monogatari hàm chứa kiểu chiều sâu tâm linh đã mang lại cảm hứng
sáng tác cho Homer, Virgil, Shakespeare, hay sự huyền bí trong thần thoại
phương Tây và Ấn Độ[8]. Theo
quan điểm này, một số nhà nghiên cứu xác định rằng tác phẩm Taketori monogatari là đánh dấu sự mở đầu
chính thức cho hình thức tự sự monogatari, vì “trước Taketori monogatari chỉ có những thuyết thoại rời rạc, những truyện
kể dân gian truyền miệng, về sau được ghi chép lại bằng Hán văn”[9].
Và bởi vì Taketori monogatari vẫn là
một kiểu truyện kể dân gian mang màu sắc huyền thoại, nên ở tác phẩm này mối
quan hệ giữa truyện cổ Nhật Bản và thể loại monogatari được thể hiện rõ nét.
Bên
cạnh đó, như đã nói trong chương 1, thơ waka là dòng chảy mạnh mẽ của truyền thống
văn học Nhật Bản từ thời cổ đại, là nguồn mạch của cảm hứng sáng tác văn chương
qua nhiều thời kỳ, nên đã nên đã thâm nhập vào cả không gian tự sự của
monogatari, tạo nên một số truyện kể bằng thơ gọi là “uta monogatari” như Ise monogatari,
Heichu monogatari và hình thức văn
xuôi tự sự có xen lẫn tanka như Genji
monogatari. Đặc biệt trong Genji
monogatari, thơ waka không chỉ đóng góp vào nội dung, hình thức trình bày
mà còn thật sự lắng vào chiều sâu văn hóa và thẩm mỹ của tác phẩm, thẩm thấu từ
ý thức của tác giả sang hình tượng, tính cách và cảm xúc của nhân vật.
Điều
đáng chú ý ở đây là, trong khi hình thức thơ tự sự khá phổ biến ở nhiều nền văn
học từ phương Đông đến phương Tây, từ thời đại của các sử thi đến thời trung cổ
với hình thức tiểu thuyết hiệp sĩ, thì hình thức này chỉ xuất hiện thấp thoáng
trong văn học Nhật Bản từ giai đoạn cổ đại sang trung đại. Và các tác phẩm kiểu
“uta monogatari” này xuất hiện vào giai đoạn đầu của lịch sử phát triển
monogatari, trước khi có những tác phẩm monogatari ở dạng văn xuôi tự sự. Vì vậy,
nhà nghiên cứu Ozaki Yoshie cho rằng monogatari ở Nhật Bản là một hình thức quá
độ từ thơ tự sự đến tản văn, có sự kết hợp cả tính chất tự sự và trữ tình trong
cách thức biểu đạt[10].
Như vậy, điểm giống nhau giữa monogatari Nhật Bản và thơ tự sự trong nhiều nền
văn học là cả hai đều mang tính chất của thể loại trung gian trên con đường
phát triển từ sử thi đến tiểu thuyết hiện đại, nhưng ở monogatari có sự kết hợp
thi pháp của nhiều thể loại và phát triển theo hướng văn xuôi tự sự là chủ yếu,
nên có những tác phẩm gần với tiểu thuyết hiện đại hơn.
Vào
thời Heian, do Nhật Bản tiếp thu văn hóa Trung Hoa thời Đường, trong đó có bộ
phận quan trọng là thơ Đường và tiểu thuyết truyền kỳ, nên monogatari trong thời
kỳ này cũng chịu ảnh hưởng của các thể loại trên, về cả nội dung và cấu tứ. Nhà
nghiên cứu Okazaki Yoshie nhận xét rằng Taketori
monogatari chịu ảnh hưởng của truyện truyền kỳ Trung Quốc, có yếu tố thần
tiên, hoang đường, thể hiện sự phát triển từ truyện thơ đến truyện tình ái ở
cung đình, và cũng có yếu tố tả thực của tiểu thuyết[11].
Trong Genji monogatari, như đã nói
qua trong chương 1, tinh thần tiếp nhận Đường thi cũng thể hiện rõ rệt qua việc
trích dẫn nhiều câu, nhiều ý trong Trường
hận ca, Văn tuyển và Bạch thị văn tập. Bên cạnh đó, giữa truyện
truyền kỳ thời Đường và thể loại monogatari của Nhật Bản thời Heian cũng có nhiều
điểm tương đồng về nội dung và cách kể chuyện. Cả hai thể loại đều là truyện kể
về thế sự nhưng phảng phất màu sắc tâm linh và được điểm tô bằng những tình tiết
huyễn ảo, lạ lùng phản ánh tư duy con người ở thời điểm còn chịu ảnh hưởng đậm
sâu của những huyền thoại cổ. Không khí này đặc biệt đậm nét ở cách miêu tả các
nhân vật nam nữ gặp nhau trong cảm xúc say mê của tình yêu, nhưng sự tác hợp
hay cản trở mối quan hệ của họ thường do những nguyên nhân kỳ lạ, ít nhiều mang
sắc màu huyền ảo. Vì vậy, cũng có nhà nghiên cứu Nhật Bản, như Okazaki Yoshie,
cho rằng monogatari là thể loại tự sự mang tính chất truyền kỳ, đồng thời có
nét tương đồng với thể loại romance phổ biến ở châu Âu vào thế kỷ XVIII[12].
Cũng
cần phải nói thêm rằng, tiểu thuyết cổ điển của Trung Quốc, từ các loại truyện
chí quái, truyền kỳ đến tiểu thuyết chương hồi có đề tài lịch sử - xã hội thời
Minh – Thanh, vẫn có những ảnh hưởng khá rõ nét đến dòng tiểu thuyết trung cận
đại ở Nhật Bản thời Edo, trong khoảng thời gian từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ
XIX. Nói cách khác, ảnh hưởng của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc đến văn chương
tự sự Nhật Bản không chỉ nằm trong phạm vi thể loại monogatari. Tuy nhiên,
trong khi tiểu thuyết cổ điển phát triển mạnh với hình thức tiểu thuyết chương
hồi ở giai đoạn trung kỳ và hậu kỳ trung đại, thì monogatari của Nhật Bản đạt đỉnh
cao về thi pháp thể loại ở tác phẩm Genji
monogatari, xuất hiện vào thế kỷ XI, rồi đến thế kỷ XVII (thời Edo) mới bắt
đầu giai đoạn phát triển nở rộ của tiểu thuyết mang tính giải trí trong xã hội
thị dân. Điều đó cho thấy monogatari Nhật Bản tuy có chịu ảnh hưởng của tiểu
thuyết cổ điển Trung Quốc nhưng có tiến trình lịch sử và thành tựu riêng biệt.
Thực tế này càng được tô đậm bởi sự xuất hiện của tác phẩm Genji monogatari – một trường hợp đặc biệt của hình thức monogatari
mà chúng tôi sẽ phân tích kỹ hơn ở phần kế tiếp.
Tuy
không có mối quan hệ tiếp nhận và ảnh hưởng trực tiếp nhưng monogatari của Nhật
Bản và romance của châu Âu vẫn có những nét tương đồng, trên tiến trình hình
thành nên tiểu thuyết hiện đại. Sự giống nhau giữa monogatari Nhật Bản và
romance của văn học phương Tây thể hiện chủ yếu ở nội dung miêu tả hoặc kể lại
những sự kiện khách quan, với sự thay đổi dần dần về cách xây dựng nhân vật, sự
mở rộng và biến đổi tự do của cấu trúc tác phẩm theo chiều hướng tăng dần những
tính chất của tiểu thuyết hiện đại. Mặt khác, do sự chi phối của điều kiện xã hội
và văn hóa bản địa, monogatari và romance có tiến trình biến đổi khác nhau trên
con đường bình dân hóa, cá nhân hóa và phát triển về chiều sâu để hình thành
nên loại tiểu thuyết đại chúng, cũng như có sự khác nhau về sắc độ thẩm mỹ của
tác phẩm ở từng giai đoạn.
Để
dễ hình dung về vị trí của thể loại monogatati trong thế giới văn chương tự sự,
từ những mối quan hệ đã được phân tích ở phần trên, chúng tôi khái quát thành một
sơ đồ đơn giản được trình bày bên dưới. Trong sơ đồ này, những mũi tên một chiều
chỉ tiến trình phát triển hoặc quan hệ ảnh hưởng, tiếp nhận (chủ thể gây ảnh hưởng
ở phía gốc, chủ thể tiếp nhận ở đầu mũi tên); còn mũi tên hai chiều kết nối hai
đối tượng có nhiều điểm tương đồng về mặt thể loại. Ngoài ra, cùng tồn tại và
có sự giao thoa ở mức độ nhất định với hình thức monogatari ở Nhật Bản còn có
thuyết thoại và tiểu thuyết thời Edo, nên cả 3 thể loại này được sắp xếp vào
cùng một khung với sự xác định tương đối về vị trí.
Sơ
đồ: thể loại monogatari trong thế giới văn chương tự sự
Nhìn
vào sơ đồ trên, có thể thấy trên con đường phát triển của văn chương tự sự Nhật
Bản từ truyện cổ đến tiểu thuyết hiện đại, tác phẩm Genji monogatari, vì xuất hiện vào giai đoạn chuyển tiếp từ thời cổ
đại sang thời trung đại trong lịch sử Nhật Bản, về đặc điểm thể loại sẽ có vị
trí gần với truyện cổ, thơ tự sự và truyện truyền kỳ. Nhưng điều đáng chú ý là
trên thực tế, tác phẩm này vừa dung hợp nhiều đặc điểm của các thể loại được
trình bày trong sơ đồ trên, vừa gần với tiểu thuyết hiện đại hơn cả tiểu thuyết
thời cận đại ở Nhật Bản và Trung Quốc, nên trở thành một trường hợp rất khó xác
định về thể loại.
[1]
Maurice Z. Shroder, “The Novel as a Genre”, in trong, The Theory of the Novel, Philip Stevick
(edited), The Free Press, 2011, tr. 17.
[3] José
Ortega y Gasset, Evelyn Rugg, Diego Marín (1957), “The Nature of the Novel”,
The Hudson Review, Vol. 10, No. 1 (Spring, 1957), pp. 11 – 42, http://www.jstor.org/stable/3847551,
tr. 23 - 24.
[4] Joseph
Conrad, “Novel as World”, in trong The
Theory of the Novel, Philip Stevick (edited), The Free Press, 2011, tr. 30.
[5]
José Ortega y Gasset, Evelyn Rugg, Diego Marín (1957), “The Nature of
the Novel”, The Hudson Review, Vol. 10, No. 1 (Spring, 1957), pp. 11 – 42, http://www.jstor.org/stable/3847551,
tr. 20 - 21.
[7] Xem岡野弘彦Okano Hirohiko (2010),「日本の心と源氏物語」(Tâm hồn
Nhật Bản và Genji monogatari), 思文閣出版, tr. 36, 65 và鈴木日出男
Suzuki Hideo (2003),「源氏物語虚構論」(Bàn
về nghệ thuật hư cấu của Genji monogatari),
東京大学出版,
tr. 669.
[8]
Xem Richard Bowring (2004), Murasaki
Shikibu – The Tale of Genji, Cambridge University Press.