Thú thật tôi cũng không rõ vì sao mình phải viết ra những
dòng này. Tôi thích viết nhưng sợ phải viết ra những thứ không đến đầu đến đũa,
vì nếu vậy thì sự viết không phải là giải tỏa mà ngược lại khiến cho tôi day dứt
nhiều hơn. Nói rõ hơn trong trường hợp này, tôi ngại viết vì nghĩ rằng một khi
đã nói đến vấn đề nghiên cứu thì nên viết một cái gì thật sự là học thuật. Đáng
tiếc là tôi hoàn toàn không thể làm điều đó trong hoàn cảnh hiện tại vì rất nhiều
lý do. Biết vậy, lẽ ra tôi nên cất những suy nghĩ lan man trong đầu vào góc tối
và làm tiếp những việc làm dang dở. Nhưng có điều gì đó không rõ rệt vẫn khiến
tôi muốn viết, muốn giãi bày dù biết ở thời điểm hiện tại mình chỉ có thể viết
những điều vụn vặt, lan man...
Cũng có thể vì trong tôi bỗng gợn lên một cảm giác gì đó khiến tôi
chợt muốn chia sẻ với mọi người, khi nhận được email của một học giả hỏi về ý
nghĩa của niên hiệu mà Nhật Bản mới vừa công bố. Tác giả email là một học giả về
khoa học cơ bản, đã từng sống và làm việc khá lâu trong môi trường giáo dục
phương Tây nhưng không hiểu vì sao rất ngưỡng mộ và gần đây thích tìm hiểu về
văn hóa Nhật Bản. Tôi biết thế nên không lấy làm lạ mỗi khi nhận email của thầy
nhờ cắt nghĩa một khái niệm nào đó. Tôi biết mình không hơn gì thầy ngoài việc
có thể tra cứu bằng tiếng Nhật. Nhiều khái niệm nhờ thầy nêu ra mà tôi mới biết
đến lần đầu, nên tất cả những gì tôi có thể làm để giúp thầy là tra cứu rồi thuật
lại những gì mình hiểu qua email viết bằng tiếng Việt. Niên hiệu mà Nhật Bản mới
công bố gần đây cũng là một trường hợp như thế.
Thoạt tiên, tôi nghĩ rằng chỉ cần tìm tự dạng Hán tự của
niên hiệu thì sẽ có thể trả lời ngay câu hỏi của thầy (trên email thầy chỉ viết
phiên âm Latin của từ nên tôi không rõ nghĩa). Nhưng khi tìm kiếm những thông
tin giúp mình biết tự dạng, tôi đồng thời được biết đây không phải là một từ
đơn bình thường có thể tìm thấy dễ dàng trong từ điển. Rắc rối hơn, xuất xứ của
từ này được tuyên bố là văn học cổ
điển Nhật
Bản, cụ thể là bài thơ trong tập thơ quốc âm Manyoshu 万葉集được sưu tầm trong khoảng
thời gian từ nửa cuối thế kỷ thứ VII đến nửa đầu thế kỷ thứ VIII.
Thông tin về xuất xứ
niên hiệu khiến trong tôi có chút gì chùng xuống. Như đã từng biết đến văn hóa
Nhật trong rất nhiều việc khác, tôi kính trọng người Nhật trong cái cách mà họ
lựa chọn và công bố niên hiệu lần này. Nhưng thành thật mà nói thì tôi cảm thấy
thật khó khăn khi phải giải thích với ai đó về bất cứ cái gì có nguồn gốc là
văn học cổ điển Nhật Bản, dù biết rằng trong trường hợp cụ thể hiện tại thì tôi
chỉ có thể trình bày ngắn gọn trong vài dòng email. Điều khiến tôi cảm thấy
không thoải mái là cảm giác như mình chỉ có thể nói với ai đó rằng mình đang thấy
biển, và biển là nơi chứa thứ nước rất mặn, trong khi bản thân đang đắm mình
trong khung cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ với màu nước, màu trời, khi mái tóc làn
da tắm nắng và đón gió, khi lồng ngực xôn xao cùng nhịp sóng và tâm hồn bay
theo cánh hải âu...
Tôi thấy không thoải
mái vì hiểu được tình trạng bất bình đẳng giữa việc hiểu văn hóa Nhật Bản từ
bên trong và việc cố gắng tiếp thu những gì được gọi là Nhật Bản qua những hiện
tượng, thông tin rời rạc trên bề mặt bên ngoài. Tôi thấy ở đó sự khó khăn của
mình và của rất nhiều người muốn tìm hiểu Nhật Bản từ điểm nhìn đặt ở một nền
văn hóa khác. Nhật Bản bí ẩn không phải vì người Nhật giấu giếm bản thân trước
người ngoài mà vì sự độc đáo nội tại ở sợi dây bền chặt nối kết hiện tại và quá
khứ xuyên suốt tiến trình lịch sử không gián đoạn, chỉ có những thay đổi theo
thời gian mà không bị đứt gãy hay thoái bộ về giá trị văn hóa. Độc đáo có nghĩa
rằng đó là một hiện tượng hiếm gặp. Và dễ hình dung rằng những hiện tượng kiểu
đó thường kích thích những bộ óc tò mò nhưng không dễ phân tích đối với bất kỳ
ai.
Mối liên hệ giữa những
suy nghĩ mà tôi muốn viết ra và chuyện hiểu ý nghĩa niên hiệu Nhật Bản vừa công
bố cũng xuất phát từ đặc tính độc đáo của văn hóa Nhật Bản.
Nhưng trước khi trình
bày cụ thể về những suy nghĩ ấy, và bởi vì đã chấp nhận là sẽ viết những điều vụn
vặt lan man, tôi cảm thấy có lẽ cần thẳng thắn nhìn nhận cái tình cảnh lạ lùng
đã cho mình cơ hội nhìn qua “ô cửa sổ” ở một chốn xa xôi đến mức tôi chẳng bao
giờ mơ đặt chân đến đó.
UCLA là một thành
viên thuộc mạng lưới University of California, hay có thể nói là campus đóng ở
Los Angeles của mạng lưới đại học này, bên cạnh những campus ở các nơi khác trong
phạm vi California như San Diego hay Berkeley.
Tôi vốn không thích
những đô thị, đặc biệt lại là đô thị trong lòng một quốc gia khá trẻ. Một nơi
chỉ có phố xá và nhà cửa, nơi để hưởng thụ đời sống theo kiểu công nghiệp hóa thường
là nơi mà tôi cảm thấy rất ít mối liên hệ với mình, dù tôi có thể sống ở đó hoặc
đi xuyên qua đó nếu cuộc đời đưa đẩy. Dĩ nhiên là nếu có điều kiện thì tôi muốn
đi khắp mọi nơi để biết về thế giới. Nhưng với tất cả những thông tin lặt vặt giúp
tôi có một ý niệm nào đó về nước Mỹ, thật sự tôi chưa từng khao khát được đặt
chân đến những nơi tạo nên ấn tượng về bộ mặt hoành tráng của “siêu quốc gia”
này như New York hay Washington DC. Tôi cũng mù tịt về điện ảnh nên hầu như
không biết gì đến sức hấp dẫn của “kinh đô” Hollywood. Thật buồn cười là nếu muốn
nghĩ về nước Mỹ như một điều tốt đẹp, tôi vẫn thường nhớ lại những trang viết của
Jack London miêu tả những miền đất hoang vu và băng giá, nơi rất ít sự sống và
dường như chẳng liên hệ gì đến thế giới văn minh, nơi chỉ dành cho những người
khốn khổ nhất của xã hội loài người hay những kẻ thích phiêu lưu mạo hiểm!
Tôi biết đến cái tên
UCLA lần đầu tiên do một người hoàn toàn xa lạ. Cô ấy gửi email cho biết một
giáo sư ở UCLA, là đồng nghiệp của cô, đang tìm người tham gia một đề án được
thực hiện do nguồn tài trợ của Nhật Bản. Tôi mở đường dẫn gửi kèm trong email
thì thấy tên của nhà tài trợ quen thuộc – Japan Foundation – nhưng chương trình
thì tôi chưa từng biết. Đọc lướt qua thông tin, tôi cũng chỉ biết mơ hồ rằng
đây là chương trình tài trợ cho hoạt động học thuật có sự hợp tác của Mỹ và khu
vực Đông Nam Á. Tôi chỉ thấy ngạc nhiên vì lần đầu tiên biết đến một loại
chương trình kéo dài đến mấy năm, và chỉ để ý là thời hạn của chương trình đang
thực hiện ở UCLA sẽ kết thúc vào tháng 3 năm tới.
“Phải trả lời thế nào
cho xong vụ này đây?” Đó là tất cả những gì tôi nghĩ sau khi đọc email và đọc
qua nội dung giới thiệu chương trình. Cho đến thời điểm đó, suốt mấy năm tôi dành
hết thời gian mình có thể tranh thủ để dịch một tác phẩm là đối tượng nghiên cứu
chính của tôi. Công việc tôi đang làm giống như một “phiến đá cửa vào” quá nặng
nề đồ sộ. Nếu tôi không làm xong thì cũng không thể nào đi tiếp trên con đường học
hành, nghiên cứu. Nhưng dù có cố làm hết sức thì cũng không biết khi nào việc mới
xong. “Phiến đá” nặng nề kia buộc tôi phải từ bỏ gần như mọi thứ, ngoài những
gì thiết yếu giúp tôi thở được và sống được. Cho nên, phản xạ của tôi trong suốt
thời gian đó là từ chối tất cả mọi lời đề nghị làm gián đoạn công việc của
mình.
Tôi không nghĩ ngợi
gì về việc mình không thể dự tuyển để tham gia đề án ở UCLA mà chỉ thấy cảm
kích trước một sự tử tế ngoài khả năng mong đợi. Tôi cảm thấy cả vị giáo sư đã
đánh tiếng để tìm người tham gia chương trình và người đã trực tiếp liên hệ với
tôi qua email đều vô cùng tử tế, đồng thời cảm thấy mình là người có lỗi vì
không thể sắp xếp thời gian cho lời đề nghị bất ngờ này. Tuy nhiên, cũng chính
vì điều đó mà tôi nghĩ rằng mình không thể nói lời từ chối đơn giản với cả hai.
Tôi thầm ước giá như không phải làm điều đó. Xem kỹ lại thông tin, tôi thấy
email được gửi cho bốn người, đều là trong đơn vị mà tôi làm việc. Nhưng vì lý
do riêng, tôi không thể yêu cầu hay nhờ vả bất kỳ ai trong số ba người còn lại
để có người đại diện đứng ra từ chối. Tôi cũng không tin tưởng rằng có ai trong
số ba người đó sẽ liên hệ với vị giáo sư kia như một người dự tuyển. Với những
gì tôi biết về cách thức làm việc của những người xung quanh, tôi đoán rằng
chuyện này sẽ rơi vào quên lãng như rất nhiều chuyện khác, nếu bản thân tôi
không nhận lấy trách nhiệm cảm ơn người kết nối và liên hệ với vị giáo sư kia,
dù chỉ liên hệ để mọi chuyện khép lại mà không khiến cho ai phải buồn lòng.
Sau vài phút suy
nghĩ, tôi trả lời ngắn gọn để cảm ơn người đã gửi email, và hứa rằng tôi sẽ
liên hệ với vị giáo sư kia để tìm hiểu thông tin chi tiết. Cô ấy khiến tôi thêm
cảm kích vì hồi đáp ngay và cũng cảm ơn tôi. Nhưng tôi đành tạm gác mọi chuyện ở
đó vì chưa biết cụ thể phải thực hiện ra sao lời hứa hẹn của mình, rồi vẫn theo
quán tính vùi đầu vào công việc.
Chừng khoảng một tuần
sau thì tôi bị cảm – một trạng thái khiến cho tôi vô cùng mệt mỏi và khó chịu
vì phải tạm rời khỏi công việc luôn luôn thúc bách mình. Vì không phải là bệnh
nghiêm trọng để ngủ vùi và quên đi mọi thứ, tôi không ngồi vào bàn làm việc
nhưng cứ cầm sách đọc và suy nghĩ miên man. Rồi tôi nhớ đến câu chuyện tử tế mà
mình đang bỏ dở. Trong trạng thái đầu óc cứ nhức mỏi tù mù, tôi chợt nhủ thầm
mình phải liên hệ chứ không được để cho mọi chuyện trôi đi mất. Tôi tự động
viên mình rằng lâu ngày chỉ toàn dùng tiếng Nhật thì thử viết tiếng Anh cho
vui, vì là viết cho một người hoàn toàn xa lạ, chẳng khác gì cầm viên sỏi tí
hon mà ném vào lòng biển, chỉ để không ai phải phật lòng và mình khỏi áy náy mà
thôi.
Tôi định là sẽ viết
hơi dài vì biết rằng khó có thể giải thích đủ để khiến người ta thật lòng thông
cảm. Nhưng có lẽ vì trạng thái uể oải thúc giục tôi tìm con đường ngắn nhất,
tôi nói toạc ra việc gì đang khiến mình bận rộn, và cố ý phân trần rằng mình không
thể sắp xếp được thời gian trước mùa xuân năm sau, vì biết rằng chương trình sẽ
kết thúc trước khi mùa xuân đến.
Thú thật là ở thời điểm
ấy, tôi vẫn hình dung rằng nghiên cứu văn học cổ điển Nhật Bản là một chuyên
ngành hẹp, và không kỳ vọng rằng, dù là một trường đại học quy mô lớn ở Mỹ, có
nhiều người cùng làm việc trong chuyên ngành đó để xem xét trường hợp của tôi nếu
tôi muốn tham dự chương trình. Nhưng vì chỉ muốn nói lời từ chối, tôi hy vọng
cái tên tác phẩm mình viện ra có đủ sức nặng và đủ tầm ảnh hưởng để vị giáo sư
kia, dù ở chuyên ngành nào, sẽ thông cảm vì hiểu rằng tôi bận rộn thật sự chứ
không phải vì thiếu thiện chí nên mới viện lý do. Tôi gửi thư và cảm thấy mình
đã trút xong gánh nặng.
Trong vài ngày sau đó
không có thư trả lời, tôi thản nhiên nghĩ rằng mọi việc đã trôi vào quên lãng, tự
nhủ dù mình có viết thư vụng về hay làm cho vị giáo sư phật ý thì chuyện cũng
đã qua. Nhưng rồi tôi nhận thư vào lúc không ngờ nhất. Vị giáo sư viết rằng vì
ông cũng nghiên cứu tác phẩm tôi đang dịch, nên rất vui nếu tôi nhận lời đến
thăm trường vào học kỳ mùa xuân năm tới, với hy vọng là chúng tôi có thể học hỏi
nhau những điều bổ ích nhờ trao đổi ý kiến chuyên môn. Tôi bàng hoàng và biết rằng
lần này thì không có cách nào mà từ chối được nữa, vì chính tôi đã đề cập đến từ
“mùa xuân” và vị giáo sư đề nghị tôi đến thăm trường vào lúc ấy. Tôi chỉ thầm
thắc mắc là không hiểu vì sao học kỳ mùa xuân ở Mỹ lại là khoảng thời gian của
ba tháng đầu năm, rồi về sau mới biết là do vị giáo sư ghi nhầm mùa đông thành
mùa xuân trong email lần đó!
Mọi chuyện thật không
dễ dàng gì khi tôi đành chấp nhận để công việc nặng nề của mình rơi vào tình trạng
gián đoạn thêm lần nữa (trước đó đã có đến ba lần, lần nào cũng phải tốn khá
nhiều thời gian và cũng vì những lý do nghiêm trọng, những tình huống không thể
lựa chọn khác), trong khi tôi lại ở thời điểm dồn nén nhiều căng thẳng, và hoàn
toàn không có thời gian dành cho việc nghiên cứu để có thể đáp ứng bất cứ kỳ vọng
nào của một đối tác cần trao đổi chuyên môn. Tôi chỉ có một điểm tựa mong manh
về mặt tinh thần, đó là bản năng muốn bước ra thế giới bên ngoài để học hỏi đôi
điều mới mẻ. Bình tĩnh lại, tôi nhận ra mình cũng cần nghe ý kiến ai đó để xác
nhận những ý tưởng của mình trên con đường nghiên cứu, đồng thời cũng cần tìm
tài liệu phương Tây để so sánh và hiểu thêm một số vấn đề. Vậy là tôi đến với
UCLA như một người trên đường đến cơ quan ghé lại một cửa hàng khi nhận ra cần tranh
thủ mua vài vật dụng.
Thật may mắn khi Los
Angeles không phải là một kiểu thành phố ầm ào nuốt chửng tôi. Nó là siêu đô thị
nhưng nó trải rộng và có nhiều khu đáng sống đối với kiểu người thích một nơi ẩn
mình bình yên, thanh thản. Và chỗ tôi tạm trú là một nơi như vậy, với cái tên
Westwood gợi lên vẻ hoang sơ và campus trải rộng liền kề. Hài lòng với sự may mắn
đó và bận tâm vì quá nhiều gánh nặng, tôi đắm mình vào những việc cần làm, đến
mức hơn một nửa học kỳ trôi qua mà vẫn chưa biết gì về thành phố có cái tên thơ
mộng, lại là nơi nổi tiếng khắp toàn cầu vì chứa trong lòng nó một kinh đô điện
ảnh. Nhiều lúc tôi chỉ nhớ là mình đang làm gì chứ không có cảm giác rõ ràng là
mình đang ở đâu. Hay những lúc ngồi co ro trong phòng nhìn qua cửa sổ thấy mưa
gió tả tơi trên những tán lá cọ bên ngoài, tôi chợt thấy như mình hoàn toàn
cách biệt với thế giới, và Los Angeles trở thành một cái tên trống rỗng...
Môi trường học thuật
đầu tiên mà tôi được làm quen ở UCLA là một seminar trình độ sau đại học. Lớp
chỉ có vỏn vẹn bốn học viên. Giáo sư điều hành seminar đến từ một trường đại học
ở Vancouver, Canada. Cũng là một khách mời của trường trong học kỳ mùa đông giống
như tôi nhưng cô ấy đã là người kỳ cựu trên con đường nghiên cứu. Cô giảng dạy,
làm diễn giả trong một buổi nói chuyện tổ chức riêng và kết hợp với một đồng
nghiệp ở UCLA tổ chức một hội thảo quốc tế về chủ đề phụ nữ trong văn học Nhật
Bản, có sự tham gia của các học giả, nghiên cứu sinh và học viên cao học đến từ
đại học Waseda, một số đại học khác ở Mỹ và Đông Nam Á, trong khuôn khổ đề án
mà tôi cũng như cô đều là những thành viên tham dự. Seminar cô dạy cũng tập
trung vào chủ đề phụ nữ trong văn học Nhật Bản.
Vị giáo sư mà tôi đã
liên hệ và được tiếp nhận để tham gia chương trình hóa ra không phải là một vị
lão thành về mặt tuổi tác như tôi nghĩ. Anh khiến tôi sửng sốt trong lần đầu gặp
mặt vì gương mặt rất trẻ và tác phong nhanh nhẹn không khác gì một cậu sinh
viên. Nhưng anh là chủ nhiệm đề án, có vị thế chuyên môn rất cao và bận rộn
kinh khủng trong suốt cả học kỳ vì rất nhiều sự kiện. Rủi thay, ở UCLA chỉ có
anh là chia sẻ với tôi về đối tượng nghiên cứu, nên theo thông lệ của chương
trình thì anh là đối tác nghiên cứu của tôi và có trách nhiệm giúp đỡ tôi về mặt
học thuật trong thời gian tôi là khách mời ở nơi này. Trong lần gặp đầu tiên,
anh vui vẻ cho biết sẽ sắp xếp những buổi nói chuyện để giúp tôi trao đổi ý kiến
với mọi người. Tôi cũng rất hào hứng với chương trình như thế nhưng cũng rất
băn khoăn, ái ngại trong thời gian đợi anh thu xếp, vì anh bận đến nỗi không đủ
thời gian để trả lời tất cả những email công việc, hoặc phải trả lời những trường
hợp cấp thiết vào lúc đã quá khuya.
Trong quãng thời gian
đó, tôi gắng dành thời gian tham dự seminar để học hỏi đôi điều, dù tôi chẳng
có ý niệm gì về nghiên cứu nữ quyền, nữ giới hay những chủ đề tương tự trong
văn học. Giáo sư điều hành seminar cũng là người vô cùng tử tế và luôn thân thiện,
giúp đỡ tôi. Sau lần gặp đầu tiên, cô hẹn tôi ở thư viện nghiên cứu và đưa cho
tôi cả một tập tài liệu rất dày, để tôi tiện theo dõi nội dung mà mọi người
trao đổi trong buổi học kế tiếp. Tôi rất hứng thú và cố gắng dành thời gian để
đọc, vì nội dung chủ yếu của mớ tài liệu đó là văn học cổ điển Nhật Bản.
Nhưng lập tức, tôi cảm
thấy dường như mình vừa vấp một tảng đá lớn ngay khi dừng mắt ở tài liệu đầu
tiên. Đó là một luận án tiến sĩ mà đối
tượng nghiên cứu là một số tác phẩm tự sự của văn học cổ điển Nhật Bản, trong số
đó chỉ có Genji monogatari là tác phẩm
tôi được biết nội dung rõ nhất[1]. Tựa
đề luận án rất hoa mỹ, nhưng khi đọc vài câu phần giới thiệu mở đầu, tôi hiểu
ra điều tác giả luận án muốn trình bày là bạo lực tình dục (sexual violence) và
cưỡng hiếp (rape) mà tác giả ghi nhận trong nội dung những tác phẩm nói trên.
Tôi chưa có điều kiện
đọc những tác phẩm thuộc dòng “monogatari” của các phụ nữ quý tộc Nhật Bản thời
trung đại, nhưng với những gì được biết về Genji
mongatari, tôi gần như choáng váng khi bắt gặp quan điểm cho rằng hành động
của Genji đối với một số nhân vật nữ là bạo lực tình dục hay cưỡng hiếp! Tôi
choáng váng không phải vì bản thân những lập luận mà tác giả luận án đưa ra, mà
vì không hiểu tại sao tác giả lại lập luận như vậy.
Phần “ghi nhận” của
luận án giúp tôi biết rõ rằng để thực hiện công trình này, tác giả đã đến
nghiên cứu ở Nhật Bản một năm theo chương trình tài trợ của Japan Foundation
dành cho nghiên cứu sinh cần thu thập tài liệu viết luận án. Tác giả cũng trình
bày rất rõ rằng bản thân đã trải qua quá trình làm việc rất chặt chẽ, công phu với
nhiều người hỗ trợ trong thời gian thực hiện nghiên cứu ở Đại học Sophia, Nhật
Bản. Vì cũng đã từng được tài trợ để tham gia cùng một chương trình nghiên cứu
như cô ấy, dù thời gian tôi ở Nhật ngắn hơn khá nhiều và tôi không may mắn được
người cùng chuyên môn hướng dẫn, tôi dễ dàng hiểu được người ta có thể làm những
gì trong thời gian một năm ở điều kiện tuyệt vời như vậy, đặc biệt là khi đã có
một nền tảng học thuật vững vàng chứ không ở hoàn cảnh phải đâm ngang bổ ngửa
như tôi. Hơn thế nữa, phần “ghi nhận” của cô còn nhắc đến một cái tên thuộc
hàng “đại thụ” trong lĩnh vực nghiên cứu văn học Nhật Bản ở phương Tây, và cho
biết đó là người đã gợi ý cho cô tiếp cận với đề tài nghiên cứu của luận án tiến
sĩ.
Tôi choáng váng vì hiểu
rằng với những thông tin tôi được biết thì đây là một bản luận án không thể chứa
đựng những sai lầm ngờ nghệch – điều mà tôi luôn phấp phỏng sợ mình mắc phải do
không có nền tảng học thuật và do thiếu thông tin – thế nhưng nó lại chứng minh
những luận điểm mà tôi chẳng biết tìm đâu ra chứng cứ. Nhưng rất may là bản
năng hiếu kỳ của một người ưa học hỏi đã giúp tôi lấy lại bình tĩnh sau cú sốc và
quyết định đọc kỹ nội dung luận án xem tác giả đưa ra những lập luận cụ thể thế
nào.
Dĩ nhiên nội dung mà
tôi có trên tay không phải là toàn bộ mà chỉ là một phần luận án. Chương đầu
khiến tôi vất vả và mất nhiều thời gian vì là chương thuần túy lý thuyết, trong
đó tác giả đi xuyên qua lịch sử nghiên cứu hiện tượng “rape” trong học thuật
phương Tây để minh định khái niệm “rape” trong trường hợp mà tác giả nghiên cứu,
đồng thời biện giải cho việc sử dụng những lý thuyết đương đại để soi rọi, phân
tích những hiện tượng được thể hiện trong tác phẩm tự sự cổ điển.
Tuy hoàn toàn không
có kiến thức nền tảng cho lĩnh vực nghiên cứu về “rape” nhưng nhờ cách trình
bày mạch lạc và quan điểm rõ ràng của tác giả luận án nên tôi vẫn lĩnh hội được
chương lý thuyết này. Những gì tác giả luận án viết ra trong chương đó khiến
cho tôi ngưỡng mộ bề dày truyền thống làm lý thuyết trong học thuật phương Tây,
nhất là ngưỡng mộ nền tảng lý thuyết sâu rộng cùng khả năng diễn đạt sáng rõ,
hùng hồn và đầy sức thuyết phục của tác giả luận án. Nhưng tôi vẫn mơ hồ nhận ra
khoảng trống còn bỏ ngỏ giữa thế giới lý thuyết rất phong nhiêu về bạo lực tình
dục hay chủ trương nam nữ bình quyền với những gì tôi đã gặp trong thế giới độc
đáo của văn học cổ điển Nhật Bản. Chính vì vậy mà dù phải chật vật để tranh thủ
thời gian, tôi vẫn hào hứng đọc tiếp phần phân tích sự thay đổi trong mối quan
hệ giữa Genji và Murasaki từ trường hợp gần giống cha nuôi và con gái sang tình
yêu nam nữ - một chi tiết thuộc nội dung chương 9 trong tác phẩm Genji monogatari.
Đi vào phân tích cụ
thể chi tiết này, tác giả lập luận rằng cách Genji cư xử với Murasaki là một kiểu
bạo lực tình dục, vì những gì xảy ra đánh dấu sự thay đổi trong mối quan hệ giữa
hai người đã khiến cho Murasaki toát mồ hôi đầm đìa – dấu hiệu cho thấy nàng hết
sức sợ hãi khi bị buộc phải chấp nhận điều trái ý trong tình cảnh hoàn toàn bất
lợi.
Ít nhất thì cách lập
luận vẫn không kém chặt chẽ và mạch lạc ở phần này giúp tôi cảm thấy mình đã bước
thêm một bước. Quả thật tác giả luận án không diễn giải sai lạc hay nhầm lẫn điều
gì khi xử lý nội dung văn bản. Tôi mừng vì thật sự không có kiểu nhầm lẫn như
tôi đã lo sợ lúc ban đầu, và từ đó chợt mơ hồ kỳ vọng sẽ gặp được điều gì lý
thú nếu hiểu ra vì sao tác giả lại theo đuổi đề tài luận án để chứng minh những
luận điểm như vậy.
Nhưng đạt được kết quả
như tôi kỳ vọng là hết sức khó khăn. Vì ở thời điểm ấy, những gì tôi biết về
câu chuyện giữa hai nhân vật Genji và Murasaki được tác giả luận án đưa ra phân
tích chỉ đơn thuần là nội dung văn bản. Tôi chưa từng lưu ý riêng đoạn văn này
để tìm hiểu, truy cầu một cái gì sâu sắc tiềm ẩn đằng sau lớp ngôn ngữ văn
chương, nên chỉ đủ sức để biết rằng nội dung diễn giải trong luận án đúng như điều
tôi đã hiểu khi đọc câu chuyện đó. Điểm khác biệt giữa tôi và tác giả luận án
là ở cách nhận định ý nghĩa của vấn đề. Tôi không hiểu được vì sao nếu như nhân
vật nữ có biểu hiện như Murasaki trong tình tiết nói trên thì hành vi của nhân
vật nam được cho là một kiểu bạo lực tình dục, bởi khi đọc tình tiết đó trong
truyện, tôi chỉ cảm nhận rằng tác giả muốn miêu tả trạng thái nội tâm của nhân
vật theo cách có thể gây ấn tượng sâu sắc mà thôi, còn về mặt sự kiện thì sự
thay đổi mối quan hệ giữa hai nhân vật đã diễn ra tốt đẹp thể hiện qua tình cảm
gắn bó tự nhiên, đằm thắm giữa hai bên kể từ thời điểm đó trong cuộc sống lâu
dài, chẳng có dấu hiệu gì của một tấn bi kịch khởi đầu bằng hành vi bạo lực
tình dục hay cưỡng hiếp.
Vì vậy, tôi khép lại
phần luận án đã được cung cấp như một tài liệu dùng cho seminar với nỗi băn
khoăn chưa giải tỏa và cảm giác hào hứng mong được nghe ý kiến của mọi người khi
bình luận về nội dung tài liệu này trên lớp. Tôi thấy vui khi bước vào phòng học
lúc giáo sư chưa đến và nghe hai học viên hoạt ngôn nhất lớp vừa chào nhau đã hỏi
ý kiến nhau về đề tài “rape” trong tài liệu. Hai bạn đồng ý với nhau rằng tác
giả của tập luận án kia có lối diễn đạt rất hoa mỹ, nhưng dường như lập luận
không thuyết phục nếu cho rằng chuyện đã xảy ra trong Genji monogatari là “rape”. Nhưng rốt cuộc, dưới sự dẫn dắt của
giáo sư điều hành seminar, cuộc thảo luận hôm đó không dành nhiều thời gian cho
tập luận án đã khiến tôi thắc mắc, mà cũng không đi vào cụ thể những điều mà
tác giả luận án đã lập luận, chứng minh. Các học viên chỉ bày tỏ chung chung là
họ cảm thấy khó có thể đồng thuận với cách lập luận của tác giả, vì đối với họ
thì mối quan hệ giữa Genji và Murasaki là tình yêu lãng mạn hơn là chuyện người
này dùng bạo lực để cưỡng đoạt người kia. Giáo sư thì ghi nhận ý kiến của học
viên với thái độ ôn hòa, chỉ hỏi cụ thể các học trò nghĩ gì khi đọc đoạn miêu tả
cảm xúc của Murasaki trong bản cổ ngữ, và rồi lại ghi nhận khi học viên trả lời
bằng cách lý giải vì sao nhân vật Murasaki lại thảng thốt bàng hoàng khi nhận
ra mối quan hệ giữa nàng và Genji đã thay đổi theo cách mà nàng không bao giờ
ngờ đến.
Nội dung thảo luận
trên lớp không sâu sắc tường minh như tôi kỳ vọng, nhưng tôi nhanh chóng hiểu
ra rằng mình không thể đòi hỏi nhiều hơn, vì nội dung tài liệu khiến tôi phải bận
tâm chỉ là một phần trong số những tài liệu mà học viên cần phải xử lý, vì
không ai trong số học viên tham dự seminar có ý định nghiên cứu hay đã có sự
chuẩn bị cần thiết để đi sâu vào nội dung chi tiết của Genji monogatari, và bản thân giáo sư điều hành seminar cũng không
phải là một chuyên gia về tác phẩm này.
Không còn cách nào
khác, tôi đành bỏ ngỏ nỗi băn khoăn và quay về với việc đọc tài liệu.
Với tài liệu kế tiếp[2], thoạt
tiên tôi chỉ cảm thấy dễ chịu, thoải mái vì tác giả bài nghiên cứu lập luận dễ
hiểu và nội dung của bài nghiên cứu là những vấn đề quen thuộc, dễ tiếp thu. Cũng
đề cập đến khái niệm “rape” khi phân tích nội dung tác phẩm Genji monogatari nhưng tác giả bài
nghiên cứu này thành thật trình bày rằng sau khi đọc kỹ tình tiết miêu tả sự
thay đổi trong mối quan hệ giữa Genji và Murasaki, bản thân đã nhận ra cách cư
xử của Genji không đáng bị cho là cưỡng hiếp. Tôi đồng tình với tác giả nhưng biết
rằng điều đó không thể giúp tôi giải tỏa mối băn khoăn, vì tôi không tìm kiếm một
ai đó biện hộ cho cách nghĩ của mình mà muốn hiểu vì sao tác giả của tập luận
án kia lại lập luận như vậy, với nền tảng học thuật vững vàng và điều kiện tối
ưu giúp cô tìm hiểu kỹ vấn đề để có cách nhìn nhận sâu sắc và hợp lý.
Vừa đọc tiếp vừa lơ
mơ nghĩ ngợi, tôi chợt hiểu ra điều mà tác giả bài nghiên cứu muốn tập trung
làm rõ là giá trị của sự yếu đuối mong manh (vulnerability). Tác giả có vẻ là
người rất am hiểu văn hóa truyền thống Nhật Bản trong xã hội quý tộc thời Heian
cũng như thời trung đại, và lý giải nội dung những tác phẩm tự sự được sáng tác
trong khoảng thời gian đó trên nền tảng quan niệm và lối sống đương thời. Cụ thể,
tác giả đưa ra nhiều ví dụ cho thấy các nhân vật nữ trong truyện kể ở thời kỳ
nói trên gần như bằng mọi cách luôn phải thoái thác khi có người khác phái tiếp
cận và thổ lộ tâm tình, bày tỏ mong muốn xây dựng mối quan hệ tình cảm, đồng thời
lập luận rằng sở dĩ như vậy là bởi vì theo quan niệm đương thời, thái độ thoái
thác trước những lời tỏ bày lãng mạn, tự đặt bản thân vào vị trí khó tiếp cận
là một điều quan trọng trong giá trị phẩm cách của phụ nữ. Một người dù ở vị thế
cao, có nhiều ưu điểm về ngoại hình, tính cách nhưng nếu là trường hợp mà nam
giới thuyết phục dễ dàng thì sẽ bị chính người chinh phục mình đánh giá là tầm
thường, dễ dãi.
Tôi cảm thấy thú vị với
cách lập luận này. Biểu hiện của các nhân vật trong tác phẩm theo cách cứ kéo
dài tình huống phải giằng co như thế thì tôi đã quen thuộc từ lâu, nhưng nhờ có
sự soi rọi của văn hóa truyền thống mà tôi mới nhận ra điều đó là biểu hiện của
một cách nhìn nhận thú vị về giá trị nữ giới. Nói ngắn gọn thì tôi lại được biết
thêm một nghịch lý trong số nhiều nghịch lý của văn học và văn hóa Nhật Bản. Nghịch
lý này cho thấy phụ nữ thật yếu đuối mong manh vì luôn ở tình trạng phụ thuộc vào
nam giới, phải chú tâm và hết sức thận trọng để giữ gìn danh dự vì luôn là đối
tượng để nam giới kiếm tìm, theo đuổi; nhưng mặt khác chính sự mong manh ấy lại
tạo nên nét quyến rũ của họ theo cách nhìn nhận giá trị của phái nam. Người ta
không cho rằng vì cần một điểm tựa mà phụ nữ nên sốt sắng ưng thuận lời đề nghị
bắt đầu mối quan hệ tình cảm với bất cứ người nào đủ điều kiện đảm bảo một đời
sống hạnh phúc.
Thoạt nghe thì một
quan niệm đầy nghịch lý như vậy có vẻ rất lạ lùng. Nhưng vì đã quen với một số
khía cạnh trong văn hóa Nhật Bản nên tôi không lấy làm khó hiểu vì sự lạ lùng này.
Ngược lại, tôi phấn khởi vì nó tình cờ giúp tôi tháo gỡ được vấn đề đã khiến tôi
thắc mắc.
Kể từ lúc được biết về
xã hội quý tộc qua văn học cổ điển Nhật Bản, mà chủ yếu là xã hội ở thời Heian
là giai đoạn phát triển đỉnh cao của văn hóa vương triều, tôi nhận thấy phụ nữ
quý tộc có vị thế đặc biệt trong truyền thống văn hóa độc đáo. Tuy chưa từng đi
sâu vào tìm hiểu chi tiết thông qua những đề tài nghiên cứu cụ thể nhưng cảm nhận
chung chung như vậy đủ giúp tôi tránh khỏi những băn khoăn. Chính xác hơn, tôi cảm
nhận có một sự cân bằng nào đó ở vị thế của phụ nữ quý tộc, tuy rằng mới biết
qua thì người ta có thể cảm thấy họ quá đỗi thiệt thòi với đời sống khép kín, bị
động và hoàn toàn phụ thuộc vào nam giới. Tôi biết rằng cảm nhận của riêng tôi là
ghi nhận cảm tính vì tôi coi trọng những giá trị như thời lượng và sự tự do dành
cho việc trau dồi kiến thức, làm phong phú đời sống văn hóa và phát triển năng
lực thẩm mỹ, và tôi cho rằng nó là sự đánh đổi không tệ cho tình thế bị động của
phụ nữ quý tộc thời xưa. Nhưng vì là cảm tính nên tôi chỉ dừng lại ở đó mà không
phân tích cho cặn kẽ những vấn đề lợi hại như những nhà nghiên cứu theo khuynh
hướng nữ quyền. Quan trọng hơn, tôi không có giả thiết ban đầu rằng hễ là phụ nữ
thì bị thiệt hại nhiều hơn là nắm giữ ưu thế. Nhân tiện, tôi không ủng hộ hay
phản đối những người có quan điểm nữ quyền, và cố gắng hiểu họ dù đôi khi họ có
vẻ cực đoan, nhưng không hiểu vì sao tôi chỉ thích những gì thuộc về phụ nữ khi
họ không nghĩ rằng vì mình là phụ nữ nên phải làm điều đó hay phải thể hiện mình
như vậy.
Trở lại với vấn đề thắc
mắc về luận điểm nghiên cứu, tôi đã tháo gỡ được rắc rối khi nhìn nhận mọi chuyện
theo cách lý tính hơn. Nhờ quan điểm và cách lập luận của Margaret H. Childs, tôi
hiểu rằng phụ nữ quý tộc thời Heian thực sự có ưu thế của họ, dẫu rằng ưu thế đó
gắn với quan niệm xã hội có vẻ khá dị thường. Từ đó, tôi nhận ra điều tác giả Genji monogatari muốn nói khi miêu tả một
cách ấn tượng cơn khủng hoảng tâm lý của nhân vật Murasaki lúc biết rằng tình cảm
thật sự của Genji đối với nàng không phải là tình cảm cha con như suốt bấy lâu
nàng lầm tưởng.
Murasaki có cảm giác
sững sờ, thảng thốt vì bất ngờ tỉnh ngộ, hiểu ra bản thân đã sai lầm nghiêm trọng
khi ngây thơ tin rằng Genji đối với nàng luôn như một người cha, bởi niềm tin ấy
đã khiến nàng thân thiết với Genji thật tự nhiên thoải mái, trong khi theo quan
niệm đương thời thì đó là biểu hiện rõ ràng nhất của một người phụ nữ dễ dãi, tầm
thường. Chính vì Genji đã dốc công rèn luyện để giúp nàng trở thành một phụ nữ
quý tộc hoàn hảo, chắc hẳn điều quan trọng nhất mà nàng phải ghi nhớ là giữ lấy
vị trí của mình bằng cung cách cư xử đúng mực, nghĩa là phải luôn giữ thái độ điềm
nhiên, phớt lạnh khi nam giới tiếp cận mình với mong muốn thiết lập mối quan hệ
tình cảm. Vậy mà nàng đã làm hoàn toàn ngược lại khi ngộ nhận rằng Genji chỉ đơn
thuần bảo trợ nàng với tình cảm cha con. Nếu biết bối cảnh của câu chuyện là văn
hóa truyền thống thời Heian, khi cái đẹp và phẩm cách con người có vị trí vô cùng
đặc biệt trong hệ giá trị của đời sống quý tộc, thì không khó để hình dung một
nhân vật như Murasaki có cảm giác thế nào khi đột ngột rơi vào một tình thế éo
le như vậy. Cho nên, những từ có vẻ gây ấn tượng nặng nề chính là thủ pháp của
tác giả để khắc họa thực hơn, sống động hơn trạng thái tâm lý của một nhân vật
có tầm vóc cực kỳ quan trọng trong tác phẩm. Và theo đó, người đọc có thể hiểu rằng
biểu hiện khác lạ của Murasaki so với thường ngày – không trở dậy sinh hoạt như
thường lệ, không đáp lời khi Genji thăm hỏi, không trả lời bài thơ chàng để lại
trên mẩu giấy nhắn tin, mồ hôi đầm đìa và chừng như mất hết tinh thần trong dáng
nằm sõng sượt – là biểu hiện của cuộc khủng hoảng đầu tiên trong thế giới nội tâm
mà nàng phải vượt qua khi vừa chớm bước sang độ tuổi trưởng thành.
Ngoài ra, còn có nhiều
dấu hiện khác nữa giúp người đọc tin rằng Murasaki bị sốc không phải vì Genji đã
tỏ ra thô bạo đối với nàng. Nếu xem xét vấn đề ở cung cách hành xử của nhân vật
Genji, cũng dễ thấy chẳng có lý do gì để một người quý phái và tôn thờ sự thanh
lịch như chàng, trong hoàn cảnh mà bản thân được thoải mái dàn xếp và hoàn toàn
tự chủ, lại khởi đầu cuộc sống tình cảm mà chàng kỳ vọng nhất bằng cách dùng bạo
lực để cưỡng hiếp Murasaki. Còn nếu cho rằng nữ giới vì phụ thuộc phái nam để có
người bảo trợ nên đành chấp nhận một người có thế lực như Genji dù có bị cưỡng
chế, thì lẽ ra người chắc chắn phải chấp nhận điều đó là nàng Tamakazura, trong
điều kiện không có người nào ở địa vị ngang bằng hoặc cao hơn Genji đứng ra che
chở, nhưng nàng đã kiêu hãnh từ chối vị chủ nhân của khu dinh thự Rokujo là nơi
nàng nương náu, mà chẳng có gì cho thấy đó là một sai lầm. Cuối cùng, theo tiến
trình câu chuyện trong tác phẩm thì sau sự kiện kia là một sự gắn bó lâu dài đằm
thắm. Thật khó để hình dung nàng Murasaki có cuộc sống tình cảm như vậy với một
người đã gây ra vụ cưỡng hiếp thô bạo khiến cho nàng hoảng loạn và mất hết tinh
thần.
Khi nhận ra điều đó,
tôi biết rằng khó khăn lớn nhất trong việc lý giải những tình tiết kiểu này là
khả năng hiểu văn học trong bối cảnh của văn hóa truyền thống Nhật Bản. Tôi nhớ
một giáo sư người Nhật nghiên cứu về lịch sử đã nói rằng người ta không thể hiểu
được những vấn đề hiện đại hay đương đại trong xã hội Nhật Bản nếu chỉ biết Nhật
Bản trong thời kỳ hiện đại, vì nhiều khi phải tìm kiếm gốc rễ của vấn đề trong lịch
sử xa xưa. Tôi cũng nhớ đã từng gặp nhiều trường hợp ngộ nhận về Nhật Bản trong
rất nhiều khía cạnh, vì người ta chỉ dựa vào suy luận chủ quan để lý giải vấn đề
từ lát cắt thông tin hiện tại mà không biết đến đặc trưng văn hóa Nhật Bản như
một hệ thống và như một tiến trình. Dĩ nhiên tác giả luận án mà tôi đề cập đến
trong bài viết này không phải là trường hợp như vậy. Chính vì thế mà cô ấy là
người giúp tôi hiểu rõ hơn về những khó khăn mà mình luôn đối mặt khi tìm hiểu
về văn học cổ điển Nhật Bản. Khó khăn là rất lớn vì đối tượng mà mình tìm hiểu
có gốc rễ sâu xa, độc đáo và cách mình một hố thẳm thời gian. Khó đến mức một nền
tảng học thuật vững vàng gắn với truyền thống làm lý thuyết sâu rộng của phương
Tây cũng chưa thể là một sự đảm bảo tuyệt đối giúp người nghiên cứu không rơi vào
ngộ nhận.
Đến đây thì tôi chợt
nghĩ rằng, chính vì thấu hiểu sự khó khăn như thế mà tôi muốn viết những dòng này
như một lời chia sẻ.
[1] Otilia Clara Milutin, Sweat, tears and nightmares: textual representations
of sexual violence in Heian and Kamakura monogatari, The University of British
Columbia, August 2015.
[2] Margaret H. Childs, “The value of
vulnerability: sexual coercion and the nature of love in Japanese court
literature”, The Journal of Asian Studies,
Vol. 58, No. 4 (Nov., 1999), pp. 1059 – 1079.