1.
Văn học Nhật Bản được dịch và giới thiệu ở Việt Nam
Những
năm gần đây, khi việc dịch và giới thiệu tác phẩm văn học nước ngoài ở Việt Nam
trở nên khá sôi động, cùng với sự xuất hiện của một số doanh nghiệp tương đối
có uy tín và quy mô trong lĩnh vực này như Nhã Nam, Phương Nam Book, Alpha
Books v.v..., thì nhiều tác phẩm văn học Nhật Bản cũng được dịch và giới thiệu
đến độc giả Việt Nam. Có thể nói những tác phẩm văn học đến từ Nhật Bản, đặc biệt
là các tác phẩm gắn với tên tuổi của những nhà văn Nhật Bản nổi tiếng trên thế
giới như Kawabata Yasunari, Natsume Soseki, Murakami Haruki, Banana Yoshimoto
v.v...., đã có sự đóng góp đáng kể vào việc mở rộng, phát triển thị trường văn
học dịch trong nước. Đồng thời, sự xuất hiện của các tác phẩm này cùng với nhiều
hoạt động giao lưu văn hóa, giới thiệu văn hóa Nhật Bản diễn ra ở các thành phố
lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Huế, Đà Nẵng cũng góp phần làm cho hình ảnh
về đất nước, con người Nhật Bản trở nên quen thuộc với người Việt Nam hơn. Cũng
cần phải nói thêm rằng nguồn tài trợ từ Quỹ giao lưu văn hóa Nhật Bản (Japan
Foundation) nhằm hỗ trợ, xúc tiến việc dịch và xuất bản các tác phẩm Nhật Bản ở
Việt Nam có đóng góp ở một mức độ nhất định trong hoạt động này, làm tăng số lượng
tác phẩm văn học Nhật Bản được dịch ra tiếng Việt.
Tuy
nhiên, phải thừa nhận rằng văn học Nhật Bản được dịch và giới thiệu ở Việt Nam
trong những năm gần đây chủ yếu là văn học hiện đại.
Trước
hết, văn học Nhật Bản gây sự chú ý cho độc giả Việt Nam qua những tác phẩm thuộc
loại best-sellers của các nhà văn Nhật Bản đương đại có sức thu hút đối với độc
giả Nhật Bản và thế giới. Bắt đầu từ bản dịch tiếng Việt của tiểu thuyết Rừng Na Uy (Noruwei
no mori) xuất
hiện lần thứ hai vào năm 2006[1], một
loạt tác phẩm của Murakami Haruki được giới thiệu liên tiếp đến độc giả Việt
Nam, từ thể loại tiểu thuyết gồm nhiều tác phẩm như Biên
niên ký chim vặn dây cót (Nejimaki-dori
kuronikuru), Kafka bên bờ
biển (Umibe no Kafuka), Phía nam biên
giới, phía tây mặt trời (Kokkyo no minami, taiyo no nishi), Người tình Sputnik (Suputoniku no
koibito), Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và nơi tận
cùng thế giới (Sekai
no owari to hadoboirudo wandarando), Cuộc săn cừu hoang (Hitsuji wo meguru
boken), Nhảy, nhảy, nhảy (Dansu,
dansu, dansu), IQ84 đến các truyện ngắn
in thành các tập như Đom đóm, Ngày đẹp trời để xem Kangaroo v.v... và
tiểu thuyết tự truyện. Cũng trong thời gian này, một cây bút nữ của văn học
đương đại Nhật Bản nổi tiếng thế giới là Banana Yoshimoto đã đến với độc giả Việt
Nam qua một loạt tác phẩm như Kitchen
(Kicchin) Vĩnh biệt Tsugumi (Tsugumi),
Say ngủ (Shirakawa yobune), N.P, Amrita
(Amurita), Thằn lằn (Tokage) v.v...
Tiếp
theo, việc giới thiệu văn học Nhật Bản với độc giả Việt Nam được mở rộng theo
hướng kết hợp việc khai thác, dịch thuật những tác phẩm mới của các tác giả
đương đại có vị trí khá nổi bật trên văn đàn Nhật Bản như Ogawa Yoko, Suzuki
Koji, Asada Jiro, Ekuni Kaori, Miyamoto Teru, Yumoto Kazumi, Ichikawa Takuji
v.v... cùng với việc tái bản hoặc dịch lại một số tác phẩm nổi tiếng trong giai
đoạn đầu tiên của văn học hiện đại Nhật Bản mà trước đây đã từng được dịch ra
tiếng Việt như các tiểu thuyết của Kawabata Yasunari, Nỗi lòng (Kokoro) của Natsume Soseki, Kim các tự (Kinkakuji) của Mishima Yukio, Người đàn bà trong cồn cát (Suna no onna) và Khuôn mặt người khác (Tanin no kao) của Abe Kobo, Đèn không hắt bóng (Mueito) và các truyện
ngắn in trong tập Truyện ngắn Nhật Bản hiện
đại.
Đặc
biệt, nhờ sự đóng góp của một số nhà nghiên cứu và dịch giả yêu thích văn học
Nhật Bản nên đã có thêm một số tác phẩm của các nhà văn lớn của văn học Nhật Bản
hiện đại được dịch và giới thiệu trong khoảng hai thập niên trở lại đây như tập
Trinh tiết tập hợp một số truyện ngắn
của Akutagawa Ryunosuke, tiểu thuyết Yêu
trong bóng tối (Momoku monogatari) của Tanizaki Jun’ichiro, một số truyện
ngắn trong lòng bàn tay của Kawabata Yasunari, tiểu thuyết Một nỗi đau riêng (Kojinteki na taiken) của Oe Kenzaburo, các truyện
ngắn Đang trùng tu (Fushinchu), Hanako, Thuyền giải tù (Takasebune) của Mori Ogai, các tác phẩm của Dazai
Osamu gồm tiểu thuyết Thất lạc cõi người (Ningen
shikkaku), Tà dương (Shayo) và một số
truyện ngắn, các tiểu thuyết của Natsume Soseki như Cậu ấm ngây thơ (Botchan)[2],
Tôi là con mèo (Wagahai wa neko
dearu), Gối đầu lên cỏ (Kusamakura), và
một số truyện ngắn của các nhà văn hiện đại Nhật Bản như Arishima Takeo,
Yokomitsu Riichi, Hayashi Fumiko, Nakajima Atsushi v.v...
So với
mảng văn học hiện đại, văn học cổ điển Nhật Bản được dịch và giới thiệu ở Việt
Nam phải nói là rất ít ỏi. Trong phạm vi tài liệu mà chúng tôi tiếp cận được,
văn học cổ điển Nhật Bản chỉ được giới thiệu qua các ấn phẩm sau:
·
Truyện cổ nước Nhật và bản sắc dân tộc Nhật Bản do Đoàn Nhật Chấn biên soạn, giới thiệu một số truyện
cổ Nhật Bản trong tập Cổ sự ký
(Kojiki).
·
Văn học Nhật Bản, Thơ ca Nhật Bản,
Basho và thơ haiku do Nhật Chiêu biên
soạn, giới thiệu một số thơ waka, thơ haiku cổ điển và trích đoạn các tác phẩm
văn xuôi cổ điển như Genji monogatari
(thời Heian), Truyện Heike (thời
Kamakura) và một số truyện ngắn của Ihara Saikaku (thời Edo).
·
Truyện kể Genji (không rõ tên dịch giả) do nhà xuất bản Khoa học xã hội
phát hành năm 1991, dịch toàn văn tác phẩm Genji
monogatari của Murasaki Shikibu từ bản tiếng Anh của Edward Seidensticker.
·
Tổng tập văn học Nhật Bản do Mai Liên chủ biên, là công trình tổng hợp, giới
thiệu thơ waka các tác phẩm văn xuôi hoặc trích đoạn của các tác phẩm này trong
văn học cổ điển Nhật Bản.
·
Tổng quan lịch sử văn học Nhật Bản do Nguyễn Nam Trân biên soạn, là một cuốn giáo trình
về văn học Nhật Bản trình bày những khảo cứu công phu của tác giả, đồng thời giới
thiệu đến độc giả Việt Nam nhiều bản dịch đoạn trích hoặc tác phẩm văn học Nhật
Bản thuộc nhiều thể loại, trong các thời kỳ văn học từ thượng cổ đến hiện đại.
Ngoài các công trình đã được xuất bản, nhà nghiên cứu Nguyễn Nam Trân còn dịch
toàn văn những tác phẩm quan trọng khác của văn học cổ điển Nhật Bản như tùy
bút Buồn buồn phóng bút (Tsurezure
gusa), Cảm nghĩ trong am (Hojoki) và
chia sẻ với bạn đọc yêu thích văn chương trên các website.
·
Nhật Bản linh dị ký, do Nguyễn Thị Oanh dịch từ Nihon ryoiki, là sách tập hợp các truyện Phật giáo ở Nhật Bản thời
Heian, do Kyokai biên soạn bằng Hán văn.
Cần
nói thêm rằng các công trình giới thiệu văn học cổ điển nói trên chủ yếu được
biên soạn dưới hình thức giáo trình dùng cho việc giảng dạy và học tập môn văn
học Nhật Bản, số lượng ấn bản không nhiều và ít được biết đến ngoài giới học tập,
tìm hiểu về Nhật Bản hoặc về văn học.
Qua
các nội dung trên, có thể tổng kết tình hình giới thiệu văn học Nhật Bản ở Việt
Nam qua dịch thuật như sau:
Ở mức
độ đại chúng, phổ biến trên toàn xã hội, văn học Nhật Bản chủ yếu được biết đến
ở Việt Nam qua những tiểu thuyết đương đại của các nhà văn nổi tiếng ở Nhật Bản
và trên thế giới. Hầu hết các nhà văn trong số này đều sáng tác trong thập niên
1980 đến nay. Các tác phẩm được dịch và giới thiệu thuộc giai đoạn này tương đối
“cập nhật” và giúp bạn đọc Việt Nam có cơ hội làm quen với nhiều phong cách tiểu
thuyết của nhiều cây bút đang có vị trí quan trọng trên văn đàn Nhật Bản hiện
nay. Tuy nhiên, nếu so sánh với số lượng nhà văn và tiểu thuyết đương đại của
văn học Nhật Bản thì có thể nói số lượng tác phẩm được dịch và giới thiệu ở Việt
Nam chỉ là một phần rất nhỏ của thành tựu văn học Nhật Bản từ thập niên 1980 đến
nay. Một điều cũng rất đáng nói là nhiều tác phẩm lớn của những nhà văn hiện đại
sáng tác từ thời Minh Trị đến thập niên 1970 như Ozaki Koyo, Izumi Kyoka,
Natsume Soseki, Mori Ogai, Arishima Takeo, Shiga Naoya, Nagai Kafu, Shimazaki
Toson, Mishima Yukio v.v... vẫn chưa được dịch ra tiếng Việt.
Bên cạnh
đó, thành tựu văn học cổ điển Nhật Bản được giới thiệu ở Việt Nam còn hạn chế,
chủ yếu nằm trong khuôn khổ các giáo trình, tài liệu giảng dạy và nghiên cứu
văn học Nhật Bản. Thêm nữa, các tác phẩm văn xuôi cổ điển có quy mô lớn mới chỉ
được giới thiệu qua các đoạn trích, hoặc như trường hợp Truyện Genji (Genji monogatari) có bản dịch toàn văn nhưng chất lượng
chưa đạt, nội dung rất khó hiểu ngay cả đối với người có hiểu biết tương đối về
văn hóa – văn học Nhật Bản.
Thơ cổ
điển Nhật Bản được biết đến ở Việt Nam qua các bản dịch chủ yếu là thơ tanka và
haiku nhưng số lượng vẫn còn rất ít ỏi so với số lượng thơ được tập hợp trong
các tập thơ cổ điển có quy mô lớn ở Nhật Bản như Vạn diệp tập (Manyoshu), Cổ
kim tập (Kokinshu), Tân cổ kim tập
(Shinkokinshu) v.v... Còn thơ ca hiện đại Nhật Bản thì rất nhiều tác phẩm, tác
giả nhưng hầu như chưa được độc giả Việt Nam biết đến.
Tình
hình trên cho thấy việc dịch và giới thiệu văn học Nhật Bản ở Việt Nam còn hạn
chế, đặc biệt so với các hoạt động giao lưu văn hóa Việt – Nhật được tổ chức tại
Việt Nam trong những năm gần đây cũng như sự quan tâm, xúc tiến, hỗ trợ từ phía
Nhật Bản qua hoạt động tài trợ của Quỹ giao lưu quốc tế. Bài viết này trình bày
những suy nghĩ, tìm hiểu của người viết về những vấn đề xoay quanh việc giới
thiệu và tiếp nhận văn học Nhật Bản ở Việt Nam, từ đó cố gắng làm rõ phần nào
những khó khăn cần khắc phục để hoạt động này phát triển mạnh hơn trong thời
gian tới.
2.
Vấn đề ngôn ngữ trong dịch thuật và nghiên cứu văn học
Nhật Bản ở Việt Nam
Một
điều cần chú ý trong việc dịch văn học Nhật Bản sang tiếng Việt là nhiều tác phẩm
trong số này được dịch từ ngôn ngữ thứ ba, nhiều nhất là trường hợp dịch từ tiếng
Anh và tiếng Pháp. Gần đây mới xuất hiện một số tác phẩm văn học hiện đại được
dịch trực tiếp từ tiếng Nhật như những truyện ngắn trong các tập Hoa cúc mùa thu, Trinh tiết, Một mùa thơ dại;
các truyện ngắn “trong lòng bàn tay” trong Tuyển
tập Kawabata; Tôi là con mèo, Cậu ấm ngây thơ và Gối đầu lên cỏ của Natsume Soseki; Thất lạc cõi người và Tà
dương của Dazai Osamu cùng với các tiểu thuyết đương đại của Ogawa Yoko,
Miyamoto Teru, Yumoto Kazumi, Ichikawa
Takuji v.v... Trong lĩnh vực này, nhà nghiên cứu Nguyễn Nam Trân đã có những
đóng góp quan trọng với những bản dịch văn học cổ điển Nhật Bản từ cổ ngữ như Buồn buồn phóng bút, Cảm nghĩ trong am và nhiều trích đoạn
văn xuôi cũng như thơ cổ điển được giới thiệu trong công trình Tổng quan lịch sử văn học Nhật Bản. Tuy
nhiên, nhìn chung thì những tác phẩm được dịch trực tiếp từ tiếng Nhật vẫn còn
rất ít và chủ yếu tập trung ở mảng văn học đương đại với các nhà văn trẻ. Ngay
cả trường hợp Murakami Haruki là nhà văn đương đại có cách dùng ngôn từ trong
sáng, dễ hiểu nhưng hầu hết bản dịch tiếng Việt các tác phẩm của ông cũng được
dịch từ ngôn ngữ thứ ba.
Những
tác phẩm văn xuôi cổ điển thể hiện những đặc trưng của ý thức thẩm mỹ truyền thống
Nhật Bản và được nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới quan tâm tìm hiểu như Genji monogatari hay Makura no soshi cho đến bây giờ vẫn còn
xa lạ với độc giả Việt Nam, ngay cả giới học thuật cũng ít người biết đến.
Thơ
tanka là một thể loại quan trọng của văn học truyền thống Nhật Bản, là nơi lưu
dấu cảm thức thẩm mỹ của người Nhật thời cổ - trung đại nhưng chỉ mới được nhắc
đến ở Việt Nam trong một số công trình nghiên cứu. Một số người Việt Nam biết đến
thơ haiku Nhật Bản nhưng vẫn còn ít người hiểu đúng và cảm nhận sâu sắc về thơ
haiku trong truyền thống văn hóa, tư tưởng Nhật Bản mà chủ yếu chỉ biết những
quy tắc đơn giản để sáng tác một bài thơ thuộc thể loại này.
Lý do
chủ yếu của tình trạng nói trên là những tác phẩm thuộc các thể loại của văn học
cổ điển Nhật Bản chưa được phổ biến rộng rãi đến đông đảo độc giả ở Việt Nam.
Trên thực tế, những tác phẩm này hoặc chưa có bản dịch tiếng Việt, hoặc bản dịch
chỉ là trích đoạn, manh mún, hoặc bản dịch không được dịch trực tiếp từ nguyên
tác, không chuyển tải được vẻ đẹp vốn có của văn học Nhật Bản đến với bạn đọc
Việt Nam, gây khó hiểu cho người đọc hay ít nhất là không khơi gợi được ở họ niềm
yêu thích dành cho văn học cổ điển Nhật Bản.
Như vậy,
trong khi đa số tác phẩm văn học ở các nước châu Âu như Anh, Pháp, Nga và tác
phẩm văn học Trung Quốc đến với bạn đọc Việt Nam qua bản dịch từ nguyên tác thì
văn học Nhật Bản, đặc biệt là những tác phẩm cổ điển mang đặc trưng độc đáo của
ý thức thẩm mỹ Nhật Bản lại thường được dịch sang tiếng Việt từ ngôn ngữ của một
nền văn hóa khác, với số lượng tác phẩm ít ỏi và đội ngũ dịch giả thưa thớt,
chưa chuyên nghiệp. Liệu có gì mâu thuẫn không, khi tình trạng này vẫn tiếp tục
kéo dài trong hoàn cảnh quan hệ Việt – Nhật ngày càng mở rộng, các hoạt động
giao lưu văn hóa Việt – Nhật diễn ra hàng năm ở nhiều nơi, số người học tiếng
Nhật ở Việt Nam và du học sinh Việt Nam đến Nhật ngày càng tăng, các khoa hay
chuyên ngành dạy tiếng Nhật xuất hiện ngày càng nhiều ở các trường đại học trên
cả nước?
Để trả
lời câu hỏi trên, cần xem xét nhiều vấn đề văn hóa – xã hội trên một phạm vi rộng
lớn, liên quan đến đội ngũ dịch giả, thực trạng nghiên cứu văn học Nhật Bản và
đội ngũ các nhà nghiên cứu, yêu cầu và đãi ngộ dành cho người dịch văn học từ tiếng
Nhật so với điều kiện tương tự ở các lĩnh vực khác cùng sử dụng lao động biết
tiếng Nhật trong xã hội Việt Nam v.v... Vì việc dịch tác phẩm văn học có liên
quan mật thiết đến vấn đề ngôn ngữ nên trước hết, trong phần này người viết
trình bày một số nội dung xoay quanh vấn đề ngôn ngữ liên quan đến việc dịch
văn học Nhật Bản sang tiếng Việt như sau.
Vì tiếng
Nhật là một loại ngôn ngữ khó học, khó thành thạo, nên tuy rằng số người biết
tiếng Nhật ở Việt Nam có tăng lên trong mấy thập niên gần đây nhưng trên thực tế
số người có thể dịch tác phẩm văn học chỉ là một bộ phận ít ỏi trong số đó. Đặc
biệt văn học cổ điển Nhật Bản từ thời Edo trở về trước được viết bằng tiếng Nhật
cổ với nhiều sự khác biệt về từ vựng và quy tắc ngữ pháp so với tiếng Nhật ngày
nay, và những điều này không được dạy trong các cơ sở đào tạo tiếng Nhật thông
thường, nên ngoại trừ những nhà nghiên cứu có điều kiện học tập, tìm tòi lâu
dài ở Nhật thì hầu hết người biết tiếng Nhật ở Việt Nam không đảm đương được việc
dịch tác phẩm văn học Nhật Bản từ cổ ngữ. Tương tự, ngôn ngữ trong các thể thơ
cổ điển như tanka, haiku cũng có hình thức riêng, khác hẳn với ngôn ngữ đời thường
của người Nhật hiện nay, nên chỉ có những người nghiên cứu chuyên sâu mới có thể
hiểu đầy đủ ý nghĩa bài thơ để dịch sang tiếng Việt. Nếu dịch các thể thơ này từ
một ngôn ngữ khác thì người dịch lại càng gặp nhiều khó khăn vì khi đó tác phẩm
đã bị biến dạng về cấu tứ, ngôn ngữ, âm điệu so với nguyên tác, khó có thể nắm
bắt đúng tinh thần Nhật Bản trong thơ để chuyển tải đến độc giả Việt Nam. Trong
khi đó, số người thành thạo tiếng Nhật có nguyện vọng làm việc chuyên nghiệp
trong lĩnh vực dịch thuật, nghiên cứu văn học Nhật Bản ở Việt Nam lại vô cùng
ít ỏi, nên việc dạy và học tiếng Nhật đại trà với việc dịch thuật, nghiên cứu
văn học Nhật Bản ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa kết hợp được với nhau để có những
tác phẩm chất lượng, quy mô giới thiệu đến đông đảo bạn đọc Việt Nam vẻ đẹp của
văn học truyền thống Nhật Bản.
Mặt
khác, chính vì văn học cổ điển Nhật Bản, đặc biệt là các thể thơ truyền thống,
được viết bằng ngôn ngữ đặc thù như thế nên việc nghiên cứu dòng văn học này
đòi hỏi người nghiên cứu phải hiểu rõ các đặc trưng ngôn ngữ của nguyên tác thì
mới hiểu được ý nghĩa tác phẩm, cảm nhận được vẻ đẹp riêng của văn học Nhật Bản
gắn với truyền thống văn hóa, tư tưởng người Nhật. Chẳng hạn, để nghiên cứu một
tác phẩm như Genji monogatari hay Makura no soshi, người nghiên cứu trước
hết phải đọc tác phẩm bằng ngôn ngữ Nhật Bản thời Heian để cảm nhận âm điệu của
câu văn và thâm nhập được vào bầu không khí đặc trưng của thế giới nghệ thuật mà
tác giả dựng lên trong tác phẩm. Hoặc trong trường hợp nghiên cứu về thơ tanka,
người nghiên cứu phải đọc nguyên tác bằng tiếng Nhật mới nắm bắt được nhịp điệu
của câu thơ, vì thể thơ này không có vần như thơ lục bát của Việt Nam mà cũng
không “tự do” hoàn toàn như kiểu thơ – văn xuôi hiện đại. Tuy nhiên, nếu đọc
thơ tanka qua bản dịch tiếng Việt, người đọc có thể hình dung vần điệu của thể
thơ này theo một trong hai kiểu nói trên. Thêm vào đó, nếu đọc qua bản dịch tiếng
Việt thì người đọc có thể hiểu nhầm là thơ tanka hay dùng các từ nhân xưng như
“tôi”, “ta”, “em”, “nàng” v.v... nhưng thật ra nguyên tác hầu như không dùng đến
những từ nhân xưng như vậy. Sự xuất hiện của các từ nhân xưng còn làm cho tính
mơ hồ, đa nghĩa hay sức khơi gợi của câu thơ đối với người đọc qua bản dịch
cũng sẽ bị mất hoặc kém hẳn đi.
Một
ví dụ tiêu biểu cho tính cần thiết của bản dịch tác phẩm từ nguyên tác tiếng Nhật,
đặc biệt là trường hợp bản dịch này được dùng cho nghiên cứu, là tác phẩm cổ điển
Genji monogatari. Nguyên tác của tác
phẩm này có nhiều thơ tanka được trích dẫn từ các tập thơ tanka cổ điển như Vạn diệp tập hay Cổ kim tập, nhưng vì bản tiếng Anh của Seidensticker không chú
thích đầy đủ cho các trường hợp này mà chỉ ghi chú sơ lược một số vị trí có
trích dẫn thơ Đường, nên bản tiếng Việt dịch từ bản tiếng Anh cũng có nội dung
tương tự. Khi đọc bản tiếng Việt này, người đọc có thể cho rằng tác giả Genj monogatari chịu ảnh hưởng sâu đậm của
văn học cổ điển Trung Quốc, thể hiện qua việc trích dẫn thơ Đường, nhưng nếu đọc
nguyên tác sẽ thấy phần thơ Đường (hầu hết là thơ Bạch Cư Dị) được dẫn vào tác
phẩm chỉ là thiểu số so với thơ tanka cổ điển được dẫn ý hoặc trích dẫn toàn
bài vào lời thoại và nội dung thư từ trao đổi giữa các nhân vật. Bên cạnh đó,
những khái niệm xuất phát từ văn học – văn hóa Đông Á như Phật A di đà, tên các
tác phẩm của Bạch cư dị hay các ca khúc, điệu múa cổ điển trong nhã nhạc cung
đình khi xuất hiện trong bản dịch tiếng Anh lại trở thành những khái niệm xa lạ
với người Việt. Nếu dịch giả không phải là người am hiểu văn hóa cổ điển Đông
Á, hoặc không bỏ nhiều công sức để tra cứu, tìm lại từ gốc của những khái niệm
này thì bản dịch tiếng Việt đến với bạn đọc Việt Nam sẽ có những nội dung khó
hiểu, sai lệch so với bản gốc và khó có thể gợi lên bầu không khí cổ điển đặc
trưng trong tác phẩm. Ngoài ra, khái niệm đặc trưng của cảm thức thẩm mỹ Nhật Bản
thời Heian là “aware” xuất hiện trong tác phẩm rất nhiều lần trong nhiều văn cảnh,
cú pháp khác nhau. Cho dù bản dịch tiếng Việt có được dịch từ nguyên tác tiếng
Nhật thì cũng khó chuyển tải nguyên vẹn giá trị biểu cảm của từ này. Vì vậy, nếu
đến với tác phẩm qua bản dịch thì người đọc khó mà hiểu được thấu đáo các nét
nghĩa tạo nên giá trị biểu cảm của từ “aware” trong nguyên tác.
Do những
vấn đề ngôn ngữ nói trên mà việc tìm hiểu văn học Nhật Bản, đặc biệt là văn học
cổ điển hàm chứa những giá trị văn hóa và biểu hiện cảm thức thẩm mỹ đặc trưng
của người Nhật, đến nay vẫn còn là việc rất khó khăn đối với người đọc Việt
Nam.
Tất
nhiên là ở nhiều nước khác, người đọc thông thường cũng chủ yếu biết đến văn học
Nhật Bản qua các tác phẩm hiện đại. Nhưng nếu có một đội ngũ dịch giả chuyên
nghiệp để chuyển ngữ những tác phẩm đặc sắc của văn học cổ điển Nhật Bản thì việc
nghiên cứu về bộ phận văn học này sẽ được thực hiện thấu đáo hơn. Sự kết hợp giữa
việc dịch thuật và nghiên cứu như vậy, tuy chỉ diễn ra trong phạm vi hạn chế, sẽ
cung cấp cho người đọc nói chung – trong những hoàn cảnh nào đó thật sự cần thiết
– những hiểu biết đúng đắn, sâu sắc về văn hóa, tư tưởng Nhật Bản trong văn học.
3.
Độc giả Việt Nam với văn học Nhật Bản: từ “biết” đến
“cảm thụ thẩm mỹ”
Như
đã nói ở phần trên, riêng vấn đề ngôn ngữ đã gây ra không ít khó khăn cho việc
dịch thuật và nghiên cứu văn học Nhật Bản, đặc biệt là văn học cổ điển và các
thể thơ truyền thống. Nhưng trên thực tế, những khó khăn trong việc giới thiệu
và tiếp nhận văn học Nhật Bản ở Việt Nam không chỉ có vấn đề ngôn ngữ.
Một
mặt, nói đến văn hóa Nhật Bản, nhiều người Việt Nam dễ có cảm giác gần gũi khi
biết rằng Nhật Bản cũng là một quốc gia nằm trong khu vực văn hóa dùng chữ Hán ở
Đông Bắc Á và có nhiều điểm tương đồng với các quốc gia cùng khu vực về văn hóa
– nghệ thuật truyền thống như tranh thủy mặc, nghệ thuật gốm sứ, thư pháp, chịu
ảnh hưởng của Phật giáo đại thừa v.v...
Mặt
khác, nếu đi sâu tìm hiểu từng lĩnh vực văn hóa sẽ nhận thấy giữa Việt Nam và
Nhật Bản có nhiều điểm khác biệt đến mức khó... hiểu được nhau, từ ý thức thẩm
mỹ truyền thống đến đời sống văn hóa đại chúng trong thời hiện đại. Chẳng hạn,
dù rất quen thuộc về mặt thông tin, nhưng ít người Việt Nam, kể cả những người
có ít nhiều hiểu biết về Nhật Bản, lý giải được hiện tượng tự sát rất phổ biến ở
Nhật, ngay cả khi thời đại của các samurai với những kỷ luật khắt khe dành cho
tầng lớp võ sĩ đã chấm dứt từ lâu. Nói đúng ra thì hiện tượng này cùng với nhiều
vấn đề khác như sự phát triển kinh tế thần kỳ của Nhật Bản trong những thập
niên sau chiến tranh thế giới thứ hai, thái độ lễ phép và lịch sự có phần “thái
quá” của người Nhật, tinh thần Thiền trong nghệ thuật bắn cung và những sinh hoạt
của đời sống được người Nhật nâng lên thành “đạo” v.v... không chỉ gây thắc mắc
đối với người Việt Nam mà còn thể hiện sự độc đáo của văn hóa Nhật Bản, khiến
người Nhật trở thành một dân tộc có phần “khó hiểu” trước cái nhìn của nhiều nền
văn hóa trên thế giới.
Cho
nên, không có gì đáng ngạc nhiên khi có nhiều người Việt Nam cho rằng văn học
Nhật Bản là khó hiểu, vì văn học chính là nơi thể hiện một cách chắt lọc và
thâm thúy nhất thế giới quan và nhân sinh quan của người Nhật. Thậm chí có những
trường hợp độc giả Việt Nam cảm thấy sự hấp dẫn của văn học Nhật Bản – chẳng hạn
nhiều người thích vẻ đẹp và cảm giác mông lung trong tiểu thuyết của Kawabata
Yasunari – nhưng vẫn không lý giải được nguồn cội hay bản chất của sự hấp dẫn
này. Tình trạng này cũng không có gì là vô lý vì cảm thụ tác phẩm văn chương được
viết theo bút pháp để lại nhiều “khoảng trống” như lối viết Kawabata không phải
là điều đơn giản. Bản thân Kawabata, trong diễn từ nhận giải Nobel năm 1968, đã
phải “đính chính” với độc giả trên toàn thế giới về ngụ ý của ông khi viết Ngàn cánh hạc (Sembazuru): “(...) nếu các vị nghĩ rằng trong thiên truyện Ngàn
cánh hạc tôi muốn mô tả vẻ đẹp của tâm hồn và những hình thức của nghi lễ trà đạo,
điều đó là không đúng. Thật ra là ngược lại, tôi chối bỏ nó, tôi cảnh báo chống
lại sự phàm tục thô thiển mà những nghi thức trà đạo hiện nay đang sa vào”.[3]
Cụ
thể hơn, một số độc giả Việt Nam, sau khi đọc khá nhiều tiểu thuyết Nhật Bản hiện
đại, thường có nhận xét rằng văn học Nhật Bản gợi lên một thế giới tối tăm, u
ám với nhiều vấn đề cá nhân và xã hội, khiến người đọc có cảm giác nặng nề hay
bất an về đời sống con người. Ý kiến này khá là thuyết phục vì tiểu thuyết Nhật
Bản hiện đại ngổn ngang những bất ổn của nhân sinh, từ sự sụp đổ các giá trị
văn hóa truyền thống trên phạm vi toàn xã hội đến sự cô đơn, lạc lõng của con
người trong một thế giới thừa thãi về vật chất nhưng lạnh lẽo về tình cảm; từ
những nguy cơ của một guồng máy kinh tế lớn đến những lệch lạc về thể xác và
tinh thần ở mỗi cá nhân. Tất nhiên, những vấn đề này không phải là chuyện riêng
có ở xã hội Nhật Bản. Nhưng có thể nói rằng qua tư tưởng và bút pháp của các
nhà văn Nhật thì các vấn đề của con người và xã hội dường như được thể hiện một
cách tập trung, sâu sắc nên gây ấn tượng mạnh mẽ hơn. Có những truyện rất ngắn
hoặc những tiểu thuyết gần như không có tình tiết gì gay cấn, nổi bật nhưng lại
đặt ra những vấn đề khắc nghiệt về sự tồn tại và thân phận con người như Ở Kinosaki (Kinosaki nite) của Shiga
Naoya, Người đàn bà trong cồn cát của
Abe Kobo, Một nỗi đau riêng của Oe
Kenzaburo, Nỗi lòng của Natsume
Soseki v.v...
Đặc
biệt, văn học Nhật Bản thường nói đến cái chết với sắc thái biểu cảm rất đặc
trưng, vừa thể hiện phong thái trầm tĩnh của một nền văn hóa xem cái chết là điểm
đến tất yếu của đời sống con người, vừa gợi lên ở người đọc tình cảm thiết tha
với cuộc sống và lòng trân trọng những giá trị tốt đẹp trên hành trình ngắn ngủi
của một cá nhân trong thế giới vô thường. Sự xuất hiện nhiều nhân vật tự sát
trong các tiểu thuyết hiện đại Nhật Bản có thể làm cho độc giả Việt Nam cảm thấy
câu chuyện mình đang đọc trở nên ngột ngạt, nặng nề và cho rằng các nhà văn Nhật
có cái nhìn bi quan về đời sống. Nhưng thật ra điều đó chủ yếu chỉ là những
cách thể hiện khác nhau của một “hằng số” văn hóa Nhật Bản: quan niệm về bản chất
của đời sống con người và vẻ đẹp riêng của cái chết, đặc biệt là những cái chết
tự nguyện, thể hiện nhận thức sâu sắc của cá nhân về những giá trị cần chọn lựa
hoặc đáng để hy sinh.
Một
ví dụ nổi bật có liên quan đến vấn đề văn hóa trong việc tiếp nhận văn học Nhật
Bản hiện đại là “hiện tượng” Rừng Na Uy
đến với bạn đọc Việt Nam trong thập niên đầu thế kỷ XXI. Việc tác phẩm trở
thành best-seller ở thị trường văn học dịch tại Việt Nam thì không có gì đáng
nói, vì hiện tượng này cũng đã xảy ra khoảng hai mươi năm trước đó tại Nhật Bản
và nhiều năm trước đó ở một số nền văn hóa đón nhận bản dịch đầu tiên của tác
phẩm này. Vấn đề là độc giả Việt Nam tỏ ra quan tâm nhiều đến việc miêu tả các
“cảnh nóng” một cách táo bạo trong tác phẩm, thậm chí còn đặt câu hỏi rằng nên
xem tác phẩm này là văn học thực sự hay chỉ là... tiểu thuyết về sex! Trong khi
đó, qua các bài nghiên cứu và những ý kiến của các bạn trẻ Nhật Bản trên
internet về Rừng Na Uy, có thể thấy
người Nhật có phản ứng và suy nghĩ khác hẳn khi tiếp nhận tác phẩm này. Độc giả
người Nhật chủ yếu bày tỏ ấn tượng về tác phẩm ở quan điểm của tác giả về sự sống
và cái chết, về tình yêu và sự yếu đuối trong tâm hồn con người. Những nội dung
về sex, nếu có được nhắc đến trong những ý kiến bình luận, thì chỉ để nói đến
nghệ thuật kể chuyện của tác giả hay sự phản tỉnh của người đọc, chứ không bị
xem là yếu tố làm cho tác phẩm trở nên thấp kém và lệch lạc trong thế giới văn
chương. Những bài viết về Rừng Na Uy
của giới nghiên cứu phương Tây cũng có đặt ra vấn đề tranh luận về tính “thuần
túy” văn học của tác phẩm nhưng thiên về phân tích những đặc điểm mang tính hậu
hiện đại như sự giễu nhại, công thức, phân mảnh, bản sắc bị đánh mất v.v...,
bên cạnh nhiều bài nghiên cứu về nghệ thuật tự sự của Rừng Na Uy nói riêng và tiểu thuyết Murakami Haruki nói chung. Dĩ
nhiên sự cảm nhận, đánh giá tác phẩm nghệ thuật của một tác giả, một trào lưu
nào đó là không giống nhau ở mỗi cá nhân trong các nền văn hóa có truyền thống
khác nhau. Nhưng những nghệ sĩ lớn xuất hiện với tác phẩm có tiếng vang trên thế
giới thường đi kèm với những đánh giá tích cực ở một mức độ tập trung nhất định.
Trường hợp tác phẩm của Murakami Haruki đến Việt Nam cho thấy có một khoảng
cách về văn hóa và cảm quan thẩm mỹ trong cảm thụ, đánh giá văn học Nhật Bản giữa
độc giả người Việt với độc giả người Nhật và thế giới.
Cảm
thụ văn học đương đại của Nhật Bản mà còn gặp nhiều vấn đề quan niệm văn học và
văn hóa như vậy thì không khó để hình dung những vấn đề trong việc tiếp nhận
văn học cổ điển Nhật Bản ở Việt Nam. Cùng với vấn đề ngôn ngữ như đã trình bày ở
phần trên, sự khác biệt về tư tưởng, văn hóa và ý thức thẩm mỹ thể hiện qua tác
phẩm văn học cổ điển Nhật Bản cũng không tránh khỏi gây ra ở độc giả người Việt
những ngạc nhiên, thắc mắc hay ngộ nhận. Ngay trong thế giới truyện cổ, những
chi tiết như nhà vua trong câu chuyện về nàng Tiểu thư ánh trăng nhận được thuốc
trường sinh bất tử nhưng không buồn dùng đến mà sai lính mang lên núi cao để đốt
cũng thể hiện một lối suy nghĩ rất lạ lùng, khó giải thích đối với độc giả người
Việt. Cho nên, khi tiếp cận với Genji
monogatari – vốn được xem như một “tập đại thành” của văn hóa và tư tưởng
thẩm mỹ thời Heian – thì độc giả Việt Nam sẽ gặp nhiều thắc mắc và khó mà cảm
thụ hết giá trị thẩm mỹ đặc trưng trong tác phẩm, đặc biệt là dễ bị ngộ nhận về
nhiều phương diện, trong trường hợp bản dịch tiếng Việt cách khá xa nguyên tác
về vẻ đẹp văn chương. Ví dụ dễ thấy nhất cho trường hợp này là vấn đề nên hiểu
như thế nào về nhân vật trung tâm của tác phẩm – hoàng tử Hikaru Genji. Nếu cảm
thụ theo cách nghĩ thông thường của người Việt hiện nay thì khó mà thấy được vẻ
đẹp của văn hóa Nhật Bản được ký thác vào hình tượng độc đáo này. Nhưng nếu xem
nhân vật là một “Don Juan Nhật Bản” hay một hình ảnh phản ánh sự suy đồi về đạo
đức thì khó mà lý giải được vị thế của tác phẩm trong suốt một nghìn năm tiến
trình văn học Nhật Bản, từ lúc tác phẩm ra đời cho đến tận ngày nay.
Tương
tự, những khó khăn trong cảm thụ văn học Nhật Bản do độ chênh về văn hóa – tư
tưởng của người Việt và người Nhật cũng bộc lộ rõ rệt ở các thể thơ truyền thống.
Thứ nhất, người Việt Nam thông thường khó mà cảm thụ được kiểu thơ không có vần
của Nhật Bản, và nếu không đọc nhiều thơ tanka bằng tiếng Nhật thì hầu như
không biết được cái hay trong nhịp điệu riêng của thể thơ này. Thứ hai, những
câu thơ hầu như chỉ có danh từ và hình ảnh thì quá ít ỏi, đơn bạc trong thơ
tanka, haiku dễ bị độc giả Việt Nam – vốn đã quen với thơ Đường luật, thất ngôn
bát cú hay lục bát – cho là khô khan, kém biểu cảm. Thứ ba, những hình ảnh dung
dị, đời thường trong thơ haiku như cỏ dại, ruồi, muỗi, dép rơm, bụi cám v.v...
trong thơ haiku dễ khiến cho người đọc Việt Nam ngộ nhận rằng haiku chỉ là thơ
dân gian, hài hước và không có giá trị thẩm mỹ cao.
Kết luận
Những
đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa nói trên kết hợp lại với nhau đã tạo nên một thế
giới văn chương Nhật Bản độc đáo, phong phú với nhiều cái hay, cái đẹp cần khám
phá. Mặt khác, thế giới này đòi hỏi những độc giả muốn thâm nhập vào bên trong
phải được trang bị tri thức về ngôn ngữ và văn hóa Nhật Bản ở một trình độ khá
cao.
Cho
nên, tuy Việt Nam và Nhật Bản có gặp nhau ở một số “giao điểm” của văn hóa Đông
Á, tuy quan hệ ngoại giao của hai nước có sự phát triển tốt đẹp trong thời gian
qua và có triển vọng phát triển mạnh mẽ hơn trong thời gian tới, nhưng với những
nội dung đã trình bày ở phần trên, có thể thấy con đường dẫn đến sự thấu hiểu
văn học Nhật Bản nói riêng và văn hóa – tư tưởng Nhật Bản nói chung vẫn còn khá
xa trong hoàn cảnh Việt Nam hiện tại. Để đi nhanh trên con đường khó khăn này,
độc giả Việt Nam cần có sự trợ giúp của đội ngũ dịch giả chuyên nghiệp, am hiểu
về ngôn ngữ và văn hóa Nhật Bản để chuyển ngữ thành công những tác phẩm văn học
có giá trị thẩm mỹ cao, đặc biệt là tác phẩm văn học cổ điển thể hiện ý thức thẩm
mỹ truyền thống của người Nhật. Bên cạnh đó, người đọc Việt Nam cũng cần sự định
hướng, dẫn dắt của các nhà nghiên cứu, phê bình am hiểu văn học và văn hóa Nhật
Bản để hiểu đúng những thông điệp văn chương của người Nhật theo cách thể hiện
riêng của họ, tránh trường hợp dùng khung giá trị của một nền văn học khác để
xác định giá trị nghệ thuật của tác phẩm văn chương Nhật Bản.
Tài liệu tham khảo chính
1.
Đoàn Nhật Chấn, Truyện cổ nước Nhật và bản sắc dân tộc Nhật Bản, NXB Văn học,
TP.HCM, 1996.
2.
Thích
Thiên Ân (1965), Lịch sử tư tưởng Nhật Bản,
NXB Đông Phương, TP.HCM.
3.
V.
Pronikov & I. Ladanov (2004), Người
Nhật (Đức Dương biên soạn), Tổng hợp TP.HCM.
4.
Charles.
A. Moore (1967), The Japanese mind:
Essentials of Japanese Philosophy and culture, East-west Center Press,
U.S.A.
5.
Donald
Keene (1984), Dawn to the West, Holt,
Rinechart & Winston, New York.
6.
Seiroku
Noma (1966), The Arts of Japan,
Kodansha International, Tokyo.
7.
秋山虔編集 Akiyama Ken (biên soạn) (1978), 『日本文学全史』2中古 (Lịch sử văn học Nhật Bản, Tập 2 – Thời trung cổ), 学燈社.
岡野弘彦 (Okano Hirohiko),「日本の心と源氏物語」(Tâm hồn Nhật Bản và Genji monogatari), 思文閣出版, 2009.
[1]
Bản tiếng Việt đầu tiên của tiểu thuyết này (do Hạnh Liên và Hải Thanh
thực hiện) xuất hiện năm 1997 nhưng bị cắt xén nhiều chỗ và chưa được biết đến
rộng rãi trên toàn xã hội.
[2]
Riêng tiểu thuyết Botchan của Natsume Soseki có 2 bản dịch: một bản là Cậu ấm ngây thơ (2006) của Bùi Thị Loan
và Cuộc nổi loạn ngoạn mục (2012) của Hồng Ngọc và Thanh Dung.
[3]
Kawabata Yasunari (Đoàn Tử Huyến dịch), “Sinh ra từ vẻ đẹp Nhật Bản”, in
trong Yasunari Kawabata- Tuyển tập tác phẩm,
NXB Lao Động & TT Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2005, tr. 964.