Yokomitsu
Riichi
Truyện này tôi dịch khi được nhờ phụ trách phần giới thiệu truyện ngắn Nhật Bản viết về Tokyo đầu thế kỷ XX, trong một tập sách nhỏ giới thiệu văn học của 4 nước Đông Á. Chỉ dịch có nửa truyện vì dung lượng cuốn sách bị hạn chế, theo đàm phán giữa chủ biên và nhà xuất bản. Nhưng sau khi bản dịch thực hiện xong thì không biết vì lý do gì đã bị bỏ ra ngoài nội dung của sách. Không biết lý do vì người chủ biên không có một lời giải thích nào! Đến nay người dịch vẫn chưa có thời gian dịch tiếp phần đầu truyện, nhưng chợt thấy buồn buồn nên muốn chia sẻ cho một vài người khác đọc chơi. Nếu có vị nào cảm thấy thích truyện này và tiếp tay dịch giúp cho phần đầu thì may mắn quá!
(...)
Seiho và Kaji đi ra đường. Sân
ga Shibuya khuất bóng trong ánh nắng chiều tà đang nhộn nhịp hành khách lên tàu
và hành khách các từ trong các toa tàu đổ ra. Trong đám đông ấy, Kaji chú ý đến
một thanh niên dáng cao và màu da hơi tái, đội kiểu mũ có góc nhọn của trường Đại
học Đế Quốc,
không lên tàu mà cũng không phải khách xuống tàu. Đôi mắt trong veo nhưng đượm
vẻ u sầu đang ngước nhìn lên trời với tia nhìn lấp lánh. Khi nhìn thấy Seiho,
chàng thanh niên lập tức quay ra phía khác tránh cái nhìn sâu thẳm, nhưng chàng
vẫn không hề nhúc nhích.
“Anh thấy cậu sinh viên của Đại
học Đế Quốc đằng kia chứ?” Seiho bảo Kaji.
“Ừm, có thấy.”
“Cậu ta là đồng ngũ của em đấy.
Mà đúng là vào hải quân luôn.”
Vẫn ở giữa dòng người đông
đúc, hai người tiến lại gần chàng thanh niên đang gắn trên cổ áo cả quân hàm hải
quân và phù hiệu của khối ngành khoa học tự nhiên.
“Ồ,
vậy mà làm thinh nhé! Cứ như đang hằn học với mình ấy nhỉ” Seiho nói rồi cứ thế
cùng Kaji đi lướt qua sau lưng chàng thanh niên.
“Em cứ bị người này người nọ ghét. Chẳng
có ai chịu hiểu cho em cả!” Seiho lại lẩm bẩm, nhịp bước càng thêm mạnh mẽ làm
vang lên tiếng bước chân thình thịch. Kaji bên cạnh vừa bước đều theo nhịp chân
của Seiho vừa nghĩ rằng chuyện đổ vỡ đâu phải chỉ là trong dân thường. Trung
tâm của phòng thí nghiệm tốt nhất ở Nhật Bản giờ cũng đang đổ vỡ đấy thôi.
Chiếc ô tô đã hẹn đợi Seiho không có ở quảng
trường Shibuya. Vì vậy hai người quyết định đi xe điện đến Roppongi, nhưng Seiho
vẫn nói cho Kaji biết số xe ô tô, dặn rằng nếu nhìn thấy xe trên phố thì gọi số
ấy để xe dừng lại. Trong xe điện, chàng Seiho hai mươi mốt tuổi kể về nỗi đau
khổ khi người mà anh đang sai phái là một cấp dưới ba mươi tuổi. Rồi cậu ta bộc
bạch thế này:
“Người mà em kính trọng nhất hiện nay là một
công nhân tên là Izu, ba mươi lăm tuổi – thuộc cấp mà em đang quản lý. Khiển
trách người này là việc khó khăn nhất đối với em. Em vẫn thầm nghĩ rằng cũng là
vì tổ quốc, trong hoàn cảnh này xin anh hãy tha thứ cho tôi, dù tôi có nói gì
thì cũng xin anh hãy bỏ qua, vì ở trong nhà máy nên nếu không gọi anh theo kiểu
suồng sã thông thường thì tôi sẽ không bảo được những người khác. Anh ấy là một
con người khá lắm kia. Nhân cách cũng rất tốt. Về mặt đó thì hạng người như em
không thể nào lại gọi Izu một cách suồng sã được.”
Anh chàng Seiho này có phần không bình thường
thì phải, Kaji lại nghĩ thầm. Thành tiến sĩ ở tuổi hai mươi mốt, có hàm thiếu
tá, có quyền sai phái nhiều thuộc cấp hơn tuổi như những phụ tá giúp việc cho
mình. Một thanh niên Nhật Bản đạt đến vinh quang tột bậc như thế thì ngoài Seiho
chẳng còn có trường hợp nào khác nữa. Anh chàng có chuyện gì không may thế nhỉ?
Kaji thấy vô cùng tội nghiệp cho chàng thanh niên có nụ cười quyến rũ này.
Hai người xuống xe điện ở Roppongi, rồi đi
bộ dọc theo đường Mamiana có hàng cây sồi nhọn. Hoàng hôn dần buông trên con phố vắng người. Có chừng mười binh sĩ lục
quân kéo chiếc xe toàn thép nguyên liệu từ dưới dốc đi lên, đến đây khi khìn thấy
Seiho mang quân hàm đại úy thì viên hạ sĩ làm đội trưởng liền hô khẩu lệnh
chào. Seiho giơ tay chào đáp lễ nhóm binh sĩ vửa đứng nghiêm đột ngột, động tác
thuần thục đến hoàn hảo. Kaji biết rằng đây là lần đầu tiên mình nhìn thấy hình
ảnh Seiho trong quân đội.
“Có lẽ cậu đã hết mùi sinh
viên rồi nhỉ” – Kaji nói.
“Em vẫn thích lục quân hơn hải
quân. Bởi vì chế độ cấp bậc trong hải quân có vẻ chẳng được nghiêm chỉnh lắm, về
mặt này thì bên phía lục quân rõ ràng hơn. Hiện nay em từ bên lục quân chuyển
qua nhưng chưa được bên hải quân thông cảm.”
Đã
nhìn thấy khu Suikosha.
Kaji lần đầu tiên đi vào nơi dành cho việc tập trung hội họp trong Trường Sĩ
quan Hải quân. Lúc này là quãng thời gian chẳng có ống khói nào nhả khói, nhưng
khói đang cuồn cuộn dâng lên từ ống khói cao nhất ở đây. Tháo thanh kiếm ngắn để
lên quầy tạm gửi các vật dụng mang theo, Seiho nói với Kaji về hình hoa cúc được
chạm khắc ở chuôi kiếm: “Cái này không phải của em mà là quân trang được cấp
cho. Em đã mượn của người khác đấy. Sắp tới rồi em cũng được cấp.”
Anh chàng vừa nói với vẻ còn trẻ con vừa dẫn
Kaji đến chỗ cửa vào phòng. Ở đó có treo biển cho biết phòng dành cho sĩ quan cấp
tá trở lên. Giữa các loại ghế và xô pha có bề mặt bọc da ánh lên màu đen bóng vì
đã được đánh bóng bằng dầu, đại úy Seiho không chỉ là quá trẻ mà còn không hợp
với hoàn cảnh do vẻ mặt tươi cười rất ngây thơ, trông cứ như tuổi vẫn còn niên
thiếu. Có vẻ như anh chàng đang cố gắng an ủi Kaji. Trong bữa ăn, những người
thuộc trường sĩ quan tập hợp ở đấy đều có vẻ mặt u ám nặng nề, chỉ một mình
Seiho là gương mặt tươi cười vui vẻ, giơ cao cánh tay rót bia vào ly của Kaji.
Khi đĩa đựng món chiên và salad được dọn ra, Kaji hỏi dò: “Mang quân hàm cấp úy
như cậu mà vào đây cũng được sao?”
“Mọi người ở đây đều biết em cả mà”, Seiho
đáp với vẻ chẳng có gì đáng phải bận tâm. Lúc đó lại có một viên sĩ quan cấp tá
đến ngồi vào chỗ bên cạnh Kaji. Anh ta chào Seiho rồi lẳng lặng cầm nĩa. Viên
sĩ quan này cũng u uẩn trầm lặng trong buổi tối hôm nay. Đó là lúc loang ra tin
đồn rằng lực lượng hải quân đang bị thua thảm hại ở tất cả các mặt trận trên biển.
Mọi người đang truyền tai nhau về chuyện thảm bại ở chiến trường Leyte,
trụ cột của hải quân là chiến hạm Yamato đã bị đánh chìm.
Sau bữa ăn hiếm hoi có cả bánh mì, Kaji và
Seiho ra bãi cỏ rộng trong khoảng vườn nằm giữa các tòa nhà, nằm trên cỏ ở trước
đền Togo và một ngôi đền có mái che nhỏ nơi cổng chính. Từ khu vườn nhìn sang
thì Suikosha trông giống như một khách sạn bảy tầng được trang bị hoàn chỉnh.
Phía trước chỗ hai người đang nằm, tòa đại sứ quán Xô-viết vươn cao trong trời
chiều như đang so kè tầm cao với Suikosha. Ở phía sau đền Togo và ngôi đền cổng
nhỏ, đèn đã được thắp lên trong một gian nhà rộng nhưng vẹo vọ móp méo rất lạ
lùng. Seiho nhìn thấy gian nhà qua kẽ lá hoàng dương và chỉ tay về phía ấy, giải
thích: “Đó là nhà ăn dành cho cấp thiếu tướng trở lên. Bên ấy hình như là đang
có cuộc họp.” Trong tất cả những tòa nhà lớn, chỉ có mỗi một gian nhà ấy là thắp
đèn sáng choang. Các sĩ quan cấp tướng mặc quân phục mùa hè màu trắng từ ngoài
cửa đổ vào, đi giữa những chiếc bàn trải khăn màu trắng rất thanh nhã. Kaji
nhìn những vị tướng bại chiến với ánh đèn lấp lánh trên ngực đang kéo đến chỗ
ngồi, tạo thành dòng người màu trắng hối hả bận rộn như những làn sóng nhỏ, rồi
nhìn sang Seiho giờ đang nằm xoài cạnh mình trên bãi cỏ, vặn vẹo nửa người ghé
nhìn quang cảnh trong gian nhà thắp sáng đèn. Anh so sánh hai bên và băn khoăn
với cảnh tượng quanh mình, phải chăng khi tòa nhà to lớn sắp sụp đổ thì mọi người
chỉ có thể trông cậy vào mỗi cây cột này thôi? Nỗi sợ hãi của một con người
điên rồ không quyết định sáng suốt có thể sẽ là một buổi hoàng hôn tĩnh lặng với
vẻ bình yên rất đời thường.
“Mọi người đến đây thì đều muốn được vào
trong gian nhà ấy, nhưng quang cảnh dưới ánh đèn tối nay lại u buồn quá nhỉ.
Phía trước lại còn có bên Xô-viết trông sang nữa chứ.”
“Thật ra em rất muốn viết một câu chuyện.
Trước đây em đã đăng một truyện trên tập san của Đại học Đế quốc, còn lần này
em muốn viết truyện Cô gái ở cửa hàng bán
ô, khai thác vấn đề nguyên lý của tính tương đối.”
Chẳng biết đang mơ tưởng điều gì mà đột
nhiên Seiho cho hai tay xuống dưới đầu làm gối và quay lại nhìn Kaji.
“Ừm...” Kaji bất ngờ thật sự.
“Một tiểu thuyết hẳn hoi đấy nhé. Nghe các
giáo sư toán học cứ bảo là hay lắm, hay lắm, và em định sắp tới sẽ viết một tiểu
thuyết về toán học. Còn cuốn Sầu lữ thứ
anh viết, em đã đọc bốn lần, và rất thích thú với nội dung toán học trong truyện
ấy.”
Nghĩ lại thì thấy đang giữa lúc đứng ngồi
không yên mà cây cột duy nhất phải chống đỡ cho cả tòa nhà lớn lại nói về chuyện
trong tiểu thuyết! Nằm dưới đáy của một vũng hoàng hôn tối thẫm, giữa một bên
là các quân nhân cấp tướng tới lui tất bật và một bên là tòa đại sứ quán Xô-viết,
Kaji nghĩ rằng có lẽ nơi này sắp bước sang một thời kỳ mới thật lạ lùng.
“Còn tia súng quang tuyến của cậu thì có
màu gì thế?” Kaji hỏi về chuyện cũ.
“Tia quang tuyến của em là ánh sáng bình
thường, ban ngày không nhìn thấy được, nhưng khi đêm xuống thì lập tức xung
quanh ánh sắc xanh, còn ở giữa màu vàng. Khi nào nó được phóng lên không trung
thì anh cứ nhìn xem.”
“Cuộc họp đang diễn ra tối nay ở đằng kia
chắc cũng là cuộc họp về súng quang tuyến của cậu đấy nhỉ. Ngoài ra có chuyện
gì đáng kể nữa đâu.”
Trời tối hẳn thì hai người chuẩn bị ra về.
Ở quầy gửi tạm các vật dụng mang theo, Seiho giắt thanh kiếm vừa nhận lại vào
chỗ thắt lưng và nói với Kaji, “Chắc em sẽ nhận được huân chương hạng nhất
đấy”, vẻ như rất hào hứng khi mặc áo khoác vào.
Hai người bước ra ngoài, rồi đi bộ về phía
Roppongi lúc này đã trở nên tối mịt. Seiho đuổi kịp bước chân của Kaji và đột
nhiên hạ giọng, như bất chợt nói ra điều mà cậu ta đã giữ kín đến tận bây giờ:
“Đã đánh chìm được bốn tuần dương hạm và bốn khu trục hạm. Em đã bắn tia quang
tuyến rồi cẩn thận tính thời gian thì biết là chỉ mất bốn phút. Ngay tức thời
anh ạ.”
Xung quanh chẳng có ai. Seiho xem đồng hồ
giắt ở thắt lưng bằng động tác rất nhanh, cứ như trong bóng tối anh chàng vừa
rút thanh kiếm ngắn đâm vụt một cái vào cạnh sườn, rồi nói với Kaji: “Nhưng mà,
nếu thế thì chắc là phải công bố chứ nhỉ?”
“Thế thì không được đâu. Quân địch sẽ biết
ngay ấy chứ.”
“Dẫu có là như thế đi chăng nữa...”
Cả hai lại im lặng bước đi. Bức tường bằng
đá trông kiên cố thâm nghiêm phả ra hơi lạnh buốt. Đường phố tối om ở Mamiana đến
đoạn leo lên một con dốc yên tĩnh, chỉ nghe vọng lại tiếng gót giày. Kaji nghĩ
rằng tối nay là đỉnh cao của những điều trải qua từ hôm trước đã khiến mình cảm
thấy ngạc nhiên. Định xua khỏi tâm trí những chuyện mà anh cho là Seiho bịa đặt,
nhưng rồi Kaji lại thấy buồn vì cảm thấy bản thân vô cùng yếu đuối. Anh thầm
nghĩ, ồ không, thật ra thì sở dĩ giờ đây mình cứ tha thiết muốn níu giữ hình
bóng của Seiho trong lòng mình đang bắt đầu mờ nhạt, rốt cuộc cũng chỉ vì mình
đã bị nụ cười của Seiho thu hút. Anh chàng áy náy vì điều đó, cứ khăng khăng muốn
mình xem cậu ta như một kẻ điên rồ và chẳng thèm bận tâm về cậu nữa. Kaji cảm
thấy khiếp sợ vì cảm giác bất an kỳ lạ ngay trong bản thân anh đang dần dần trở
nên vô tình lạnh lẽo, và bước đi như thể ném mình vào không gian tĩnh mịch có
những cây cối mờ mờ đen.
“Tiên sinh ạ, em thì...” – Sau một hồi
lâu, Seiho lại nói khi sánh bước cùng Kaji – “Hiện nay có một điều làm em băn
khoăn mãi.”
“Chuyện gì kia?”
“Trước đây em chưa từng có cảm giác sợ chết,
nhưng không hiểu vì sao em lại thấy sợ chết trong mấy ngày gần đây.”
Con người bên trong của Seiho lại vừa thức
dậy. Kaji nghĩ thế và chỉ đáp ậm ừ.
“Tại
sao thế nhỉ? Em vẫn muốn sống thêm ít nữa mà! Dạo này vì chuyện đó mà em không
ngủ được.”
Con người vẫn tồn tại ở sâu thẳm bên trong
anh chàng cựa quậy và lên tiếng. Cậu ta đã cảm nhận được rồi, Kaji thầm nghĩ,
và nghiêng tai chờ nghe Seiho nói tiếp. Nhưng rồi cả hai lại im lặng đi tiếp một
lúc lâu.
“Em muốn bám víu vào ai đó nhưng chẳng biết
làm sao, vì chẳng có ai cả.”
Cậu bé vẫn hồn nhiên đùa giỡn trên trời,
bây giờ khi nhìn khắp xung quanh chẳng thấy một ai, bất giác ghé nhìn xuống dưới
và để lộ vẻ sợ hãi đến suýt bật khóc vì cô độc.
“Có lẽ thế thật.”
Kaji không định trả lời Seiho. Anh thấy
thoáng buồn, chỉ bước đi và mắt nhìn lướt qua những gốc cây bên đường có lớp vỏ
rất dày. Anh muốn đi nhanh ra chỗ ngã tư có ánh đèn. Vừa đến chỗ ban chiều đã gặp
nhóm binh sĩ với chiếc xe chở thép, anh chợt nhớ lại hình ảnh Seiho tươi tắn và
hoạt bát lúc ban ngày. Rốt cuộc Kaji lên tiếng:
“Nhưng cậu này, vì cuộc sống con người được
bắt đầu như thế, nên cậu cũng mới chỉ bắt đầu thôi. Chuyện ấy chẳng có gì là ghê
gớm cả.”
“Thế ạ?”
“Cậu đang ở vị trí không thể bám víu vào
ai được. Vì vậy mà cậu nhìn thấy sự trống rỗng. Con đường này có tên là
Mamiana, chắc đây vốn là nơi chỉ toàn loài lửng chó sinh sống,
rồi không biết từ lúc nào con người đã đến sống ở đây, cho nên mới thành đường
thế này. Trong cuộc đời, chúng ta rồi cũng sẽ phải đi qua nhiều nơi. Nếu chỉ có
thế này thì biết làm sao được! Hmm, người ta cứ khua trống tiến lên và bảo, bắt
đầu nào, bắt đầu nào. Chẳng phải đến lúc chết chúng ta cũng vẫn làm như thế đấy
ư?”
“Đúng thế thật.”
Rồi Kaji nghe tiếng bước chân đĩnh đạc của
Seiho cứ như tiếng khóc vừa ngưng lại. Ánh đèn từ chỗ trạm dừng xe Roppongi rọi
sang ngay phía trước hai người. Có bóng vài ba người đang tụ lại dưới cột đèn
chỗ ấy. Khi Kaji và Seiho cùng đến đứng lẫn vào thì xe điện chạy tới gần đang sắp
leo lên dốc.
Gần sang tháng Chín, khi đã
bắt đầu có hơi hướng gió thu thì Takada đến chỗ Kaji. Hôm sau mọi người định tổ
chức tiệc mừng Seiho bảo vệ thành công luận án tiến sĩ, và Takada rất muốn mời
Kaji tham dự. Nơi đãi tiệc ở Yokosuka,
kể cũng hơi xa một chút, nhưng vì Seiho dặn nhất định chỉ đưa Kaji đến, nên
Takada định sẽ làm hội thơ haiku ở đấy luôn. Vì là buổi tiệc của hội thơ haiku
nên Kaji nhận lời tham dự, đợi ngày mai Takada đến rủ đi cùng.
“Tham dự hôm nay có những ai thế nhỉ?”Kaji
hỏi Takada trên chuyến tàu đi Yokosuka hôm ấy. Takada đáp rằng buổi tiệc được tổ
chức trong một ngôi nhà trên núi, là nhà riêng của một kỹ sư chế tạo máy bay,
người tham dự chỉ có vài viên đại úy của trường sĩ quan hải quân và những người
yêu thích thơ haiku.
“Anh kỹ sư này làm thơ haiku rất hay, mà
cũng là một kỹ sư tài năng nổi bật đấy. Anh ấy là bạn thơ haiku với mình, nên
chẳng cần e ngại gì đâu.” Takada nói thêm.
“Nhưng e rằng hiến binh sẽ đến.”
“Ồ, nhưng vì là hội thơ haiku, nên mọi
chuyện chắc cũng ổn thôi mà.”
Trên đường đi, cả Kaji và Takada không ai
gợi ra vấn đề liệu Seiho có phải là một người bất bình thường hay không. Tuy vậy,
Takada – người cho rằng Seiho không bình thường và đã nói với Kaji như thế – lại
đang kéo Kaji đến cảng quân sự để tham dự tiệc chúc mừng Seiho. Nhà của viên kỹ
sư cách ga tàu khá xa. Đường lên ngọn núi nhìn ra biển là con đường dốc đứng,
Kaji thở hổn hển khi bước trên những bậc đá cao và xếp quanh co. Dòng nước chảy
ra từ triền dốc có hoa sắn dây rừng buông rủ, sớm chiều vẫn róc rách không ngừng
nơi đáy thung thoai thoải và ngập nắng.
Lên đến đỉnh núi, hai người bước vào cổng
ngôi nhà nấp sau vòm quýt nặng trĩu quả xanh. Đó là nhà của viên kỹ sư, và hội
thơ cũng đã bắt đầu. Seiho là thượng khách được bố trí ngồi ở vị trí trang trọng
nhất trong nhà. Phía trên chỗ ngồi của Seiho có ghi dòng chữ “Hội haiku chúc mừng
bảo vệ luận án thành công”, và có cả những đề tài sáng tác thơ cho ngày hôm ấy.
Một nhóm khách đến dự khoảng chừng hai mươi người đang yên lặng làm thơ. Kaji
và Takada ngồi vào một góc chỗ đầu hồi uốn cong và lập tức tham gia làm thơ
haiku với đề tài hoa sắn dây rừng. Kaji mở cuốn sổ tay đặt trên đùi, tựa vào
cây cột và quay lưng lại phòng khách bên trong. Màu xanh của những trái quýt
trĩu cành đong đưa qua lại làm tan biến cả sự mệt nhọc ở Kaji. Tiếng nước sớm
chiều róc rách không ngừng vọng lên nền trời hoàng hôn vẫn còn chút ánh sáng phản
chiếu từ mặt biển.
“Đây là anh trai em, hôm nay cũng đến đây
góp mặt.” Seiho nói nhỏ để giới thiệu với Kaji từ phía sau. Anh của Seiho dáng
người thấp bé cất tiếng chào bằng chất giọng địa phương của vùng Tohoku. Phía
trên chỗ anh ngồi có nhành hoa sắn dây rừng cắm trong chiếc ống tre buông rủ xuống.
Anh ấy có vẻ như chẳng hứng thú gì với hội thơ, xin kiếu với lý do sắp hết giờ
tàu hỏa, rồi ra về sớm nhất.
“Hoa sắn dây rừng
Chia tay đồi núi
Giữa mùa quýt xanh”
Kaji ghi ngay vào sổ tay bài haiku
đầu tiên. Dường như tiếng ve vẫn còn nghe văng vẳng. Bất chợt Kaji nghĩ rằng một
khi đã nghi ngờ mọi thứ thì chuyện Seiho bảo vệ luận án thành công cũng đáng bị
nghi ngờ mới phải. Tất cả những gì Seiho làm chỉ trong thế giới huyễn tưởng mà
cậu ta đang mộng du thì mới được xem là sự thật, còn thì dường như chẳng có điều
gì thật sự tồn tại cả. Buổi họp mặt nho nhỏ trên núi hôm nay, của những ai tin
vào cái sự thật trống rỗng đã được bịa đặt ra như thế mà kéo đến chúc mừng, có
lẽ cũng giống như vẻ đẹp của bông hoa giờ đây đang khoe sắc thế này. Nghĩ thế
nhưng Kaji không cảm thấy bất bình, mà cũng không có cảm giác trống rỗng.
“Chủ khách hội mừng
Sớm chiều nhìn ngắm
Hoa sắn dây rừng”
Kaji lại ném vào chiếc khay một
mảnh giấy có bài haiku mới viết.
Khi mặt trời lặn và ánh đèn
trong phòng hắt ánh sáng ra vườn, một người trong hội thơ vừa thì thầm trao đổi
với người ngồi bên cạnh vừa đăm đăm nhìn ra bên ngoài hàng rào của khu vườn.
Anh ta nghe thấy tiếng bước chân của hiến binh khe khẽ tiến gần đến chân rào. Người
tổ chức buổi tiệc bàn với Seiho xem có nên mời các hiến binh vào hay không.
“Thôi vậy, không mời vào được
đâu. Rồi sẽ quen thói mất!”
Seiho đang ngồi đĩnh đạc ở vị
trí trang trọng nhất lắc đầu với vẻ uy nghiêm mà thường ngày anh ta không biểu
lộ. Hội thơ vẫn tiếp tục khi anh ta tỏ ra dứt khoát với quyết định tức thời như
thế. Takada đảm nhiệm phần công bố sáng tác của hội thơ. Trong những bài thơ được
đọc lên, hai bài của Kaji và Takada có số điểm cao ngang ngửa nhau trong một
lúc khá lâu, rồi điểm dần cao hơn về phía Takada và hội thơ kết thúc. Khoảng nửa
số người xuống núi ra về. Sau đó, Seiho ăn tối cùng với nửa số khách là những
người thân thiết còn ở lại. Tiếng bước chân khe khẽ của các hiến binh vẫn còn
quanh quẩn phía ngoài rào. Khi rượu được mang ra và mọi người dần trở nên cởi mở,
Seiho giới thiệu với Kaji: “Đây là anh Izu mà em đã có lần nhắc đến, cũng là
người đã giúp đỡ em nhiều nhất đấy.”
Kaji muốn mở lời chào anh Izu
cương nghị và trầm lặng đang mặc bộ quần áo lao động. Seiho nói mấy lời trêu
đùa cô gái vốn là người quen biết đang giúp rót rượu cho buổi tiệc. Tuy đáp lại
với vẻ thân mật nhưng cô gái vẫn đỏ bừng mặt trước anh chàng Seiho là tiến sĩ
hai mươi mốt tuổi, và động tác cứ lóng ngóng vụng về. Anh kỹ sư là người tổ chức
buổi tiệc thì lúc nào cũng khoanh tay, vầng trán phẳng lặng toát ra vẻ thanh
cao lịch duyệt, có thói quen luôn giữ vẻ trầm lặng ôn hòa.
Rượu không nhiều và chẳng mấy
chốc những vị khách đến từ Tokyo đã chuyền nhau uống hết. Trán đỏ ửng, Takada
khi ấy đã nằm vật xuống ngửa mặt lên trời. Một chiếc thủy phi cơ sáng đèn bay
thấp đang nổ máy rất to và bay rà đến gần ngọn núi. “Này, súng quang tuyến của
cậu có bắn hạ được chiếc này không?” Hai tay vẫn gối dưới đầu, Takada nhìn về
phía Seiho mà hỏi. Mọi người đang ồn ào bỗng đều im bặt trong phút chốc. Rồi
Takada bỗng nhiên tỉnh ra và ngồi dậy. Anh ngồi thật chỉnh tề với ánh mắt như
đang nghiêm khắc tự phê bình, và chỉ trong một thoáng đã khơi lại rất nhanh bầu
không khí sôi nổi. Kaji nhìn thấy thế thì nghĩ rằng tài thao lược nổi trội của
Takada có tác dụng quả là ghê gớm. Seiho chỉ mặc một lớp áo sơ mi, vẻ tươi tỉnh
cứ như sắp khoa chân nhảy múa.
Đêm ấy ba người Kaji, Takada
và Seiho nghỉ lại ở tầng hai trong ngôi nhà của anh kỹ sư ấy. Takada nằm bên phải
Kaji, còn Seiho thì nằm bên trái. Nằm giữa hai người chìm nhanh vào giấc ngủ,
Kaji lại thức đến khuya vì mãi không ngủ được. Seiho cởi trần, không đắp chăn.
Anh chàng lấy tấm chăn gấp lại làm tư rồi đặt lên trên mặt, dùng hai tay nắm lại
và giữ yên như thế, tạo nên hình ảnh trong lúc ngủ rất buồn cười, cứ như cậu ta
bị chất chồng đến bốn, năm cái đệm ngồi lên mặt! Chẳng biết cậu ta đang mơ thấy
gì nhỉ, Kaji thầm hỏi và trong đêm thỉnh thoảng lại ghé nhìn sang phía Seiho.
Ánh đèn điện sáng rực rọi vào khoảng bụng hóp lại chung quanh rốn cứ phồng lên
xẹp xuống theo nhịp thở nhẹ nhàng. Vì gương mặt bị khuất dưới tấm chăn nên
trông Seiho cứ như một thân thể trẻ trung không có đầu. Phần từ rốn trở lên của
cơ thể ấy như đang lẩm bẩm nói với Kaji rằng “Em thấy sợ chết thế nào ấy!” Kaji
nghĩ rằng mình đã nhìn thấy cả rốn của Seiho, rồi anh cũng chìm dần vào giấc ngủ.
Sau
đó Kaji và Seiho chẳng có lần nào gặp lại nhau. Kể từ mùa thu ấy trở đi, ngay cả
trong những đợt không kích dữ dội thì Kaji vẫn không rời khỏi Tokyo một bước.
Những lúc ấy anh thường nhìn lên trời nhưng rốt cuộc vẫn không thấy tia quang
tuyến của Seiho xuất hiện. Kaji thường gặp Takada và mỗi lần như thế đều có hỏi
thăm về Seiho. Nhưng Takada bị cháy nhà và chẳng còn nơi nào tá túc nên chỉ trả
lời với vẻ đã hết quan tâm đến Seiho, vì vậy Kaji cũng chẳng biết được gì về
anh chàng ấy. Chỉ có hai chuyện Kaji được nghe từ Takada. Chuyện Seiho vì tự gắn
thêm một ngôi sao lên quân hàm nên đã bị quân đội phạt tù, Takada nghe viên kỹ
sư kể lại trong một hội thơ sau lần gặp Seiho chừng một tháng. Và chuyện trong
thời gian xảy ra không kích, viên kỹ sư đã lập gia đình, nhưng ngày hôm sau thì
qua đời vì bị bệnh đột ngột. Cái chết của viên kỹ sư công tác cùng một nơi với
Seiho đã làm chấm dứt sự kết nối cho đến thời điểm ấy, vì từ lần gặp nhau trước
đó Takada chỉ biết hỏi thăm về Seiho chứ chẳng có cách nào khác nữa. Cho nên
Kaji cũng không có thông tin.
Chiến tranh kết thúc. Kaji
đoán chắc Seiho đã mất rồi. Dù là chết trong hoàn cảnh nào đi nữa thì có lẽ cậu
ta cũng không còn trong cuộc đời này. Một ngày nọ, khi đọc báo ở một ngôi làng
miền núi cùng người vợ đang sơ tán đến Tohoku, Kaji gặp một đoạn văn ngắn là lời
kể của giám đốc Viện Kỹ thuật, nội dung nói về một loại vũ khí mới ở Nhật Bản
là súng quang tuyến sát thương đã được chế tạo sắp thành công. Tầm bắn của súng
quang tuyến đã đạt tới những ba nghìn mét, nhưng chàng thanh niên là người phát
minh ra loại vũ khí này khi nghe tin Nhật Bản đầu hàng đã phát điên mà chết vì
quá thất vọng. Kaji nghĩ rằng người thanh niên trong câu chuyện ấy chắc chắn là
Seiho.
“Seiho đã chết rồi!”
Kaji nói vắn tắt như vậy rồi
đưa cho vợ anh tờ báo. Trong thoáng chốc anh tưởng như nhìn thấy từ trang báo
chi chít chữ màu đen có tia quang tuyến là ánh lửa xanh phóng vụt lên, rồi những
đốm sáng rụng rơi lả tả và biến mất. Cảm xúc của Kaji cũng như hoa bừng nở
trong khoảnh khắc rồi nhanh chóng dịu đi. Mọi người đều trở thành hư vô, Kaji
thầm nghĩ.
“Ôi, đúng là cậu Seiho rồi
đây. Cậu ấy mất thật rồi! Trước kia cậu ấy có bảo với em rằng sẽ không để lọt
vào dù chỉ là một chiếc máy bay của địch... Hẳn là cậu ấy đã xây
xẩm mặt mày khi nghe tin Nhật Bản đầu
hàng, anh nhỉ?” Trong khi vợ nói thế thì Kaji vẫn ngồi bên cạnh, nghĩ rằng chuyện
Seiho phát điên đã thể hiện ra từ dạo ấy rồi. Anh cho rằng những việc cậu ấy
làm và những điều cậu ấy nói ra, có chuyện là thật nhưng có chuyện chỉ là mơ tưởng.
Và Kaji cũng ngờ rằng bản thân mình đã bị ảnh hưởng từ cậu ta đôi chút nên dường
như cũng có triệu chứng điên. Kaji ngẩng nhìn lên trời một hồi lâu, cảm thấy
mình giống hệt chàng Urashima khi mở nắp chiếc hộp quý giá đã cầm theo và thấy
trong hộp tỏa ra làn khói trắng. Giờ
đây khi viên kỹ sư và Seiho đều đã chết thì bầu trời trước mắt Kaji lại hiện
lên cảnh tượng trong ngày cuối cùng ở Yokosuka khi anh từ biệt hai người ấy. Buổi
sáng sau cái đêm nghỉ lại ở nhà viên kỹ sư, bốn người gồm Kaji, Seiho, viên kỹ
sư và Takada cùng xuống núi. Khi nhìn xuống thấy máy bay đang diễn tập không
kích thẳng vào một chiếc tiềm thủy hạm đang thả neo trên biển, viên kỹ sư đã
nói, “Sản phẩm do mình chế tạo thì dù được làm ra bao nhiêu đi nữa rồi cũng bị
bắn rơi. Vì sản phẩm do Seiho làm ra là để bắn hạ mà. Bọn mình không hợp nhau
đâu đấy!”
Viên kỹ sư đang mặc bộ com-lê
màu xanh sẫm, nhỏ giọng nói lầm bầm mấy câu như thế. Cách viên kỹ sư khoảng một bước chân về phía
trước, Seiho đang bước đi xuống dốc với vẻ hoạt bát vui tươi, xà cạp quấn ở bắp
chân phồng lên trông như chiếc đèn lồng. Sau đó mọi người cùng xem thiết giáp hạm
Mikasa, rồi chia tay ở ga Yokosuka. “Chắc là em chẳng còn được gặp lại anh nữa
đâu. Mong anh luôn mạnh khỏe!” Với ánh nhìn dứt khoát, Seiho cúi thật thấp khi
nói lời chào từ biệt Kaji. Chẳng biết thế nghĩa là thế nào, tuy rằng sau khi từ
biệt Seiho, lúc bước đi Kaji bất chợt thấy buồn vì một niềm dự cảm mơ hồ về cậu
ấy vừa chợt đến trong anh...
Sau khi về lại Tokyo từ nơi sơ
tán, Kaji đột nhiên bị bệnh. Thỉnh thoảng khi Takada đến thăm, Kaji có gợi chuyện
về Seiho, nhưng Takada chỉ mỉm cười bí ẩn với vẻ chán chường vì mọi chuyện đã
không thể vãn hồi được nữa.
“Này cậu, nhưng riêng nụ cười
của anh chàng Seiho ấy thì rất đẹp. Nhìn nụ cười ấy thì bọn mình ai cũng đều mê
mẩn. Chỉ riêng về điểm ấy...”
Khi
nói thế, Kaji có cả ngụ ý rằng nụ cười cũng là một tia sáng làm trái tim người
ta tan vỡ. Nhưng dẫu là như vậy, Kaji cũng thấy thật lạ lùng khi mỗi lần chợt
nhớ lại nụ cười cứ như buổi chớm xuân tuyệt đẹp của Seiho thì anh luôn có cảm
giác như chờ đợi một cái gì rơi xuống từ bầu trời mà anh đang ngước nhìn. Đó là
niềm hy vọng giống như một quyết định sáng suốt mà giờ đây mọi người trên thế
giới đều trông đợi. Bất chấp điều đó, cõi đời như thể đang mỉm cười lạnh lùng vẫn
mãi trôi lênh đênh ngay giữa quy luật phi mâu thuẫn cứ phân đôi mọi thứ rồi
ghép lại với nhau. Kaji cảm thấy như anh chàng Seiho đưa tay chỉ vào cánh quạt
gió đang quay rồi bật cười khanh khách giờ đây vẫn cứ tiếp tục bảo mọi người:
“Xem này, khoảnh khắc ta không nhìn cánh quạt thì ta vẫn biết là nó đang quay
chứ. Mình cũng mới vừa bay lên thôi, hãy xem này!...”