Tôi vừa chia tay với người yêu.
Nói đúng hơn, tôi vừa nhận ra rằng chúng tôi
đã, đang và sẽ không là của nhau, không thuộc về nhau.
Anh chưa từng nói yêu tôi. Chưa
từng giới thiệu tôi với bất cứ ai trong gia đình. Chưa
từng ấn định ngày tháng năm nào sẽ cưới tôi.
Hình như mọi rắc rối của cuộc đời đều do tôi
quá đa cảm.
Chẳng hạn, tôi cứ hình dung cuộc đời anh sẽ tẻ
nhạt, vô nghĩa, sẽ trống rỗng mà nặng nề nếu không có tôi và sự quan tâm chăm
sóc của tôi. Tôi nghĩ rằng anh sẽ đau đớn, vật vã và suy sụp nếu vì một lý do
nào đó mà tôi phải rời xa anh mãi mãi.
Mà cũng có thể mọi chuyện là do tôi quá thông
minh. Tôi bỏ học liên tục để lao đi kiếm tiền. Tôi thức khuya dậy sớm vì công
việc kinh doanh của anh. Vậy mà tôi vẫn ra trường với tấm bằng loại khá.
Hay là do tôi đã sống một cuộc đời quá đơn điệu.
Họ hàng nội ngoại đều ở xa. Bố mẹ và anh chị em đi về lặng lẽ. Suốt bảy năm trời,
từ ngày biết anh tôi chỉ nghĩ về anh. Tôi giao tiếp với khách hàng của anh, có
mặt ở những cuộc vui mà anh tham dự, lo lắng khi anh trắc trở và vui mừng lúc
anh thành đạt. Tôi dốc hết sức lực, tiền bạc và thời gian vào sự nghiệp của anh
để cảm thấy mình trở nên giàu có.
Hay chỉ vì tình yêu là một cái gì không có thật?
Hay chẳng vì lý do nào cả? Tôi không biết và sẽ chẳng bao giờ biết được. Cuộc đối
thoại giữa tôi và anh đã vĩnh viễn khép lại rồi.
“Tháng sau anh cưới vợ”. Anh đã nói với tôi như
thế. Và tôi tin như thế. Như bảy năm vừa qua tôi đã đặt niềm tin tuyệt đối vào
anh.
Tôi trở về nhà, gom tất cả những gì có liên
quan đến anh cho vào một cái thùng gỗ cũ kĩ và to tướng. Nhiều quá, gần như tất
cả những gì tôi có đều mang bóng dáng của anh. Tôi đậy nắp thùng gỗ, khóa lại
và ném chìa khóa vào sọt rác. Niềm tin của tôi dành cho cái gọi là tình yêu
cũng bị nhốt kín cùng với mớ kỉ vật ấy rồi, mãi mãi.
Tôi chọn một ít áo quần và đồ dùng lặt vặt cho
vào vali. Trước đây, tôi đã từng dự tính sẽ đi du lịch, nhưng là đi với anh, và
chỉ cần có anh là đủ. Còn bây giờ tôi không biết sẽ đi đâu. Không biết nơi nào
đẹp và cái gì cần thưởng thức. Thế giới của tôi giống như một khu vườn đang
xanh tốt bỗng nhiên bị biến thành một pháo đài quân sự. Tôi cứ đi loanh quoanh
trước hàng rào thép gai lạnh toát mà không biết phải làm gì.
Trong những tháng ngày vô định đó thì tôi nhận
được một cú điện thoại lạ. Người gọi điện là một cô bé khoảng mười lăm tuổi sống
cùng thành phố với tôi. Cô bé nhận là em gái và gọi tôi bằng một cái tên lạ hoắc.
Tôi biết chắc đó là sự nhầm lẫn. Vì tôi không
có em gái và cũng chưa cho ai biết số điện thoại mới của mình. Nhưng cô bé cứ một
mực cho rằng tôi chính là chị gái của em, hoặc ít ra là một người bạn thân của
chị ấy. Em nói cần gặp tôi và muốn trò chuyện với tôi.
Tôi đồng ý hẹn gặp em ở một quán trà gần nơi
tôi làm việc. Em đến rất đúng giờ. Một cô bé nhỏ nhắn với gương mặt thanh tú,
nhưng có cái vẻ xanh xao của một người đã sống trong bóng tối lâu ngày. Tôi có
cảm giác như em vừa bước ra từ một lâu đài trong cổ tích. Một nơi không dành
cho những cuộc đối thoại hay bàn cãi. Nơi chỉ có những giá nến và những chùm
đèn sang trọng ngủ vùi trong quá khứ vàng son. Nơi mà tiếng khóc và nụ cười chỉ
hiện diện trong những bức tranh và những cuốn sách gáy da mạ vàng nằm im trong
thư viện.
Em nhìn tôi. Đôi mắt thẫm màu mở to và trống rỗng.
Cái trống rỗng nguyên sơ như rọi về từ thuở hồng hoang. Nhưng chỉ một thoáng
thôi. Khi rèm mi cụp xuống thì tôi không dám nhìn em nữa. Tôi sợ nhìn thấy ở bất
cứ đôi mắt nào cái khoảnh khắc mà sự khát khao giãy chết để nhường chỗ cho nỗi
vô vọng triền miên.
Nhưng câu chuyện mà em mang đến không phức tạp
và ly kỳ như tôi tưởng. Một câu chuyện rất bình thường. Như muôn sự bình thường
vẫn đến và đi trong cõi người ta quắt quay và hỗn độn.
Bố mẹ em là những nhà kinh doanh thành đạt và
có địa vị xã hội. Cô chị hơn em tám tuổi đang học ở trường đại học trong thành
phố. Chị ấy thường xuyên xung đột với bố mẹ về quan điểm sống, về việc lựa chọn
ngành nghề. Chị có một người bạn trai học vấn thấp và không có việc làm ổn định.
Khi bố mẹ phản đối, chị đã tìm mọi lý lẽ để bảo vệ anh ấy, đã khóc rất nhiều và
cuối cùng đã bỏ đi. Em chỉ có một cách duy nhất để liên lạc với chị là gọi vào
số điện thoại của chị ấy. Điện thoại mất tín hiệu kể từ khi chị ra khỏi nhà vào
một buổi chiều muộn, sau một trận cãi nhau. Em cứ bấm mãi trên điện thoại cái
dãy số vô tri ấy như một niềm ám ảnh, chỉ để nghe tiếng tít tít vô cảm sau một
câu thông báo lạnh lùng. Cho đến một ngày em mừng rỡ khi bắt được liên lạc,
nhưng đó là số điện thoại của tôi. Sao lại là số điện thoại của tôi chứ không
phải của một người nào khác?
-
Chị ơi, có nhiều lúc em nghĩ…hay chị ấy đã chết rồi mà
em không biết?
-
Sao em lại nghĩ thế? Tôi gần như quát lên, không biết
là để trấn an cô bé hay để lấn át nỗi sợ hãi của chính mình- Không ai lại chết
dễ dàng như thế cả. Rồi chị ấy sẽ về. Chị ấy ra đi chỉ đơn giản là để chứng tỏ
sự phản kháng của mình thôi.
Tôi nói như ném đá vào khoảng không trước mặt.
Khoảng không đó là sự bất lực không thể chối cãi. Tôi muốn em tin vào những điều
tốt đẹp trong khi chính mình chẳng dám tin như thế. Nhưng tôi có thể làm gì trước
một đôi mắt mở to và trong suốt? Có phải tình yêu thương và nỗi tuyệt vọng cũng
không màu?
-
Từ ngày chị ấy đi mọi thứ đều thay đổi. Những con sáo
buồn bã xác xơ và chết rũ trong lồng. Những giò phong lan không ra hoa nữa. Những
khóm xương rồng khô quắt lại. Em sợ lắm! Đã lâu rồi em không dám ngủ trưa. Trong
giấc mơ ban trưa em thấy toàn những hình ảnh xa lạ và chết chóc. Em không mơ thấy
chị ấy nhưng luôn nghĩ đến chị sau khi tỉnh giấc. Có những đêm em không ngủ được
chỉ vì nghe tiếng kèn đám ma. Em sợ cái chết dù không biết người ta phải sống để
làm gì.
Tôi nhìn bâng quơ ra bên ngoài cửa sổ. Tôi biết
mình không thể nói gì thêm. Em còn quá nhỏ để nghe những phân tích về tâm lý, về
liệu pháp tinh thần, nhưng cũng không còn là trẻ con để tôi có thể huyễn hoặc bằng
cổ tích. Tôi thấy mình như đang tan ra trong một nỗi buồn vô hạn. Giá như tôi
đã “sống” nhiều hơn trước lúc gặp em!
-
Cũng có lúc em nghĩ…hay là chị ấy đã đến N.?
-
N. ư? Vì sao thế?
-
Chị ấy thường bảo N là một thành phố đẹp. Vì ở đó có
biển, có núi và có rất nhiều hoa.
Tôi mỉm cười. Cả nghìn thành phố trên thế giới
này đều có những thứ mà em vừa kể. Nhưng tôi không nói với em suy nghĩ của
mình.
-
Bố mẹ em có thường đến N không? Tôi hỏi
-
Em không biết. Hình như bố mẹ chẳng bao giờ nói chuyện
với em.
-
Vậy em có người thân nào sống ở N. không?
-
Không ạ- Em buồn bã lắc đầu- Hoặc là có mà em không biết.
Em chưa từng ra khỏi thành phố này. Bây giờ thì em rất muốn đến N. để tìm chị
nhưng chắc chắn là bố mẹ em sẽ không cho phép.
Thành phố N. mà em tình cờ nhắc đến đã vô tình
trở thành điểm đến của tôi, giống như một đốm sáng nhỏ nhoi bất ngờ xuất hiện
khi tôi đang chơi vơi trong đêm tối mịt mùng.
Ngày hôm sau, tôi đến cơ quan làm giấy đề xuất
đi công tác đến N. Tôi không muốn giải thích bất
cứ lý do nào để xin nghỉ phép. Nhờ những ngày tháng làm việc cần mẫn và có tinh
thần trách nhiệm, tôi dễ dàng nhận được sự đồng ý của cấp trên, dù chưa có ý tưởng
rõ rệt nào về những công việc mà tôi sẽ phải làm.
Tàu đến ga N. vào lúc hai giờ sáng. Sân ga vắng
vẻ đìu hiu như rền lên trong hơi thở cũ kĩ và nặng nhọc của con tàu, rồi trở lại
vẻ ban đầu quạnh quẽ. Tôi ra khỏi nhà ga, vẫy hú họa một chiếc taxi để đến
khách sạn lấy phòng. Tài xế đưa tôi đến một khách sạn nằm sát biển, giải thích
rằng đây là một trong những khách sạn tốt nhất thành phố và chúc tôi có một kỳ
nghỉ thú vị.
Tôi mang hành lý lên phòng. Mới chớm thu mà trời
đột nhiên trở lạnh. Tôi ngâm mình vào bồn nước nóng để tẩy rửa bụi đường rồi cuộn
mình trong chăn ấm ngủ một giấc thật sâu. Giấc ngủ yên bình đầu tiên kể từ khi
cuộc đối thoại giữa tôi và anh chấm dứt.
Khi tôi thức dậy thì buổi sáng đã trôi qua một
nửa. Tôi lục lọi tất cả những số điện thoại lưu trong máy, rồi tất cả danh thiếp
mà tôi đã nhận được trong nhiều tình huống và cẩn thận mang theo. Tôi gọi cho
vài người quen cũ trong thành phố. Có người đang bận việc cơ quan. Có người
đang bận việc gia đình. Có người đang trên đường đi công tác. Vài người hẹn gặp
tôi sau giờ tan sở buổi chiều. Nhưng tôi không muốn nằm dài trong một gian
phòng kín bưng và yên lặng để đợi đến giờ hẹn buổi chiều. Tôi bỏ máy ảnh và vài
thứ lặt vặt vào chiếc túi xách tay rồi đi ra phố.
Hôm đó tôi về phòng rất muộn. Hình như là đã
quá nửa đêm. Rượu và cà phê khiến giấc ngủ của tôi chập chờn, đứt quãng và nặng
trĩu. Ngày kế tiếp tôi nằm lì trong phòng nghe nhạc cổ điển và đọc một cuốn
sách cũ kể về một câu chuyện tình bất hạnh.
Khi tôi đọc xong quyển sách thì đã hơn năm giờ
chiều. Tôi thấy đói khủng khiếp, cứ như đã lâu ngày bị thiếu ăn.
Tôi vén rèm nhìn ra cửa sổ. Trời lất phất mưa.
Biển thẫm lại và những đợt sóng chồm lên, trắng xóa. Tôi xuống nhà hàng ở tầng
trệt gọi một chiếc sandwitch và một cốc cà phê sữa.
Nhà hàng vắng ngắt. Chỉ có một thiếu phụ ngồi ở
góc phòng, cạnh ô cửa sổ nhìn ra biển. Thiếu phụ mặc bộ quần áo màu rượu chát. Dáng
người thon thả, mái tóc dày và óng buông xuống nửa lưng. Gương mặt chị nhìn
nghiêng rất đẹp nhưng buồn. Trông chị như một chiếc dương cầm bị bỏ quên trong
một ngôi giáo đường hoang phế.
Khi thiếu phụ xoay người lại, tôi giật mình nhận
ra trên gương mặt chị một đôi mắt rất quen. Lẽ nào câu chuyện của cô bé ở thành
phố xa xôi kia lại ám ảnh tôi nhiều đến thế?
Tôi đủ tỉnh táo để biết rằng chị không phải là
cô sinh viên năm cuối, không thể là nhân vật của câu chuyện hôm trước ở quán
trà. Nhưng quả thật có một nỗi ám ảnh nào đấy cứ đeo bám lấy tôi. Nỗi ám ảnh vể
sự giống nhau lạ lùng giữa thiếu phụ và cô bé mà tôi đã gặp nhưng chưa kịp biết
tên. Nỗi ám ảnh đó thúc đẩy tôi bưng cốc cà phê chưa kịp uống đến ngồi cùng bàn
với chị.
Thiếu phụ nhìn tôi và mỉm một nụ cười. Không phải
cười xã giao. Một nụ cười buồn và sâu thẳm. Trước mặt chị là một chiếc điện thoại
có kiểu dáng rất nữ tính, một chiếc cốc pha lê đựng thứ nước hoa quả màu hồng.
-
Chị đi tham quan hay đến đây công tác?- Tôi bắt chuyện.
Thiếu phụ khẽ lắc đầu:
-
Không tham quan mà cũng không công tác. Chị đến đây để
gặp người thân.
Tôi cúi xuống nhấp một ngụm cà phê, và suy
nghĩ. Hình như có một điều gì đó không bình thường. Không ai đến một thành phố
lạ để gặp người thân mà lại ngồi một mình trong nhà hàng rộng thênh thang ở
khách sạn vào giờ ăn tối. Nhưng tôi có lý do gì để hỏi và biết về chuyện riêng
tư của chị? Mà cũng có thể chẳng có gì bất ổn, chỉ vì tôi quá nhạy cảm trước vẻ
mong manh của một người phụ nữ mà thôi.
-
Có phải chị đến từ thành phố K.? Tôi buột miệng.
Lần này thì chị gật đầu
-
Chị đến học ở K., rồi sau khi lấy chồng vẫn sống và
làm việc ở đó.
Có thể tôi đã đi quá xa trong thế giới tưởng tượng.
Hoặc là tôi quá sợ hãi trước những bi kịch của con người. Nhưng không hiểu sao
trong lòng tôi có cảm giác thất vọng nhiều hơn là nhẹ nhõm, như khi tôi đứng
trước một cây đàn cũ kỹ và rất đẹp nhưng không còn đủ sức để ngân lên một nốt
nhạc nào.
-
Em thấy chị rất quen. Có thể em đã từng gặp chị ở đâu
đó. Hoặc có thể em đã gặp một người giống chị- Tôi thấy mình đang cố gắng để gợi
lên một điều gì đó. Nhưng hình như chị không biết đến sự tò mò. Ánh nhìn của chị
đọng lại trên mặt tôi một thoáng, rồi chị quay ra ngoài cửa sổ. Chị không thắc
mắc gì về cá nhân tôi, không hỏi tôi từ đâu đến và vì sao lại ngồi đây. Chị nói
mà không nhìn vào người đối diện:
-
Chị không nghĩ là có ai đó giống mình. Cũng không nghĩ
là đã từng gặp em. K. là một thành phố lớn, mà phạm vi cuộc sống của chị thì rất
nhỏ. Mẹ chồng chị sống ở đây. Bà ấy bệnh nặng, đang hấp hối và muốn gặp chị. Vợ
chồng chị sống ly thân đã lâu. Nhưng với mẹ chồng lần này, dẫu sao…nghĩa tử là
nghĩa tận.
-
Em cứ nghĩ những dịp như thế này là lúc để người ta
nhìn nhận lại và tha thứ cho nhau?
-
Không có gì để mà tha thứ cả. Chỉ có những sự nhầm lẫn
đôi khi nghiêm trọng đến mức khó hiểu. Chị nhận ra điều đó khi tìm thấy chồng
chị trong vòng tay người đàn bà bốn mươi tám tuổi, người mà anh ấy vẫn gọi là mẹ
nuôi.
Những điều chị vừa nói làm tôi nhớ đến anh. Và
tôi đồng ý với chị rằng có những sự nhầm lẫn nghiêm trọng đến mức gần như là
phi lý. Nhưng dường như chị không chú ý gì đến thái độ của tôi. Chị cầm chiếc
điện thoại lên ngắm nghía với một thoáng tần ngần, rồi đứng dậy.
-
Xin lỗi nhé, chị phải lên phòng sắp xếp ít đồ đạc. Ngày
mai chị sẽ đi.
Chị nói thật chậm rãi. Rồi
trong một động tác xoay người rất nhẹ, chị đẩy cánh cửa sổ trượt qua và ném chiếc
điện thoại ra ngoài.
Không có tiếng rơi. Bên
ngoài cửa sổ là biển cả với những con sóng bạc đầu mê mải đuổi nhau và gào thét
những điều vô nghĩa. Chị đóng cánh cửa lại và đi về phía cầu thang.
Trời đã tạnh mưa. Tôi uống
hết cốc cà phê rồi trở về phòng. Điện thoại bàn đổ chuông khi tôi đang mở van
cho nước chảy vào bồn tắm. Người trực ở quầy tiếp tân bảo tôi có điện thoại từ
xa gọi đến và yêu cầu tôi giữ máy để nhận cuộc gọi. Rồi một giọng đàn ông ở đầu
dây bên kia hẹn gặp tôi ở sân bay khoảng ba mươi phút nữa.
Sau khi gác máy tôi vẫn
chưa hiểu chuyện gì vừa mới xảy ra. Giọng nói của người đàn ông trên điện thoại
rất giống giọng của anh và điều đó đẩy tôi rơi vào trạng thái bị động.
Thật lạ lùng. Ký ức tôi
còn lưu giữ rất nhiều ánh mắt của những người đàn ông. Những ánh mắt hoặc quá
si mê nồng nhiệt hoặc quá lạnh lùng bí ẩn. Nhưng giọng nói thì tôi chỉ nhớ âm sắc
và chất giọng của anh.
Dĩ nhiên là tôi chẳng có
cuộc hẹn với người nào ở sân bay cả. Nhưng lúc ngâm mình trong làn nước ấm và
lơ mơ nghĩ ngợi, tôi bỗng thấy khát khao được gặp người đàn ông nào đó có giọng
nói làm tôi nghĩ đến anh. Một người đàn ông có thể rất quen mà cũng có thể hoàn
toàn xa lạ. Tôi quyết định phải ra sân bay.
Ra khỏi taxi, tôi bước
chông chênh giữa khoảng sân vắng lặng. Ở hành lang, một vài nhóm người đứng
quanh những chiếc xe đẩy chất đầy hành lý. Không có anh hoặc người đàn ông nào
mang dáng dấp của anh.
Chuyến bay có người khách
mà tôi tìm gặp đã hạ cánh trước đó mười phút. Mười phút có khi là một khoảng thời
gian vô nghĩa, nhưng có khi là cả cuộc đời.
Lúc đi ngang quầy bar của
sân bay, tôi nhìn thấy một người đàn ông trung niên đang ngồi uống cocktail và
xem truyền hình. Trước mặt ông ta là một chiếc cặp da màu đen, trên cặp có một
đóa hồng vàng.
Tôi đến gần người đàn ông
và hỏi :
-
Xin lỗi, có phải ông đến bằng
chuyến bay đã hạ cánh cách đây mười phút ?
Người đàn ông nhìn tôi một
lúc lâu, rồi trả lời :
-
Không, tôi đang đợi chuyến bay.
Vì nhớ nhầm thời gian nên tôi đã ra sân bay sớm một giờ.
Bỗng dưng tôi thấy hụt hẫng,
như bị phản bội bởi một người bạn mà mình tin cậy nhất. Tôi xin lỗi, giải thích
rằng tôi cần phải đón người quen nhưng đến muộn, rồi bước ra khỏi quầy.
Tôi gọi taxi đi loanh
quanh trong thành phố rồi trở về khách sạn. Đêm hôm ấy tôi lại mất ngủ dù không
hề dùng chất kích thích. Đến gần sáng thì tôi mệt mỏi thiếp đi.
Trong cơn mê, tôi mơ hồ
nghe tiếng ai đó hét lên và bừng tỉnh. Có tiếng chân bước hối hả và tiếng người
lao xao phía hành lang. Rồi tiếng xe cứu thương hụ còi gấp gáp.
Tôi mở cửa phòng và nhìn
thấy một thân người rũ rượi nằm trên chiếc cáng được khiêng vội ra phía cầu
thang. Tôi kịp nhận ra thiếu phụ đẹp và buồn với bộ quần áo màu rượu chát.
Thì ra phòng chị ấy ở cạnh
phòng tôi. Trong phòng không có gì gây cảm giác xáo trộn. Quần áo đã được xếp cẩn
thận vào vali. Một chiếc cốc thủy tinh nằm trên sàn nhà, cạnh chai rượu ngoại
đã vơi gần phân nửa. Không có dấu vết của thuốc an thần hay một loại hóa chất
nào đặc biệt. Những người xung quanh tôi bảo rằng chị đã uống nhiều rượu mạnh
và bật điều hòa ở nhiệt độ quá thấp.
Trên chiếc bàn kê gần giường
ngủ có hộp đựng mỹ phẩm và một đóa hồng vàng cắm trong chiếc lọ cổ cao bằng sứ
trắng. Tôi chợt nhớ đóa hồng vàng trên chiếc cặp của người đàn ông ở sân bay.
Giá như lúc nhận điện thoại
tôi đủ tỉnh táo để xác nhận thông tin hay nói một lời từ chối! Dẫu biết rằng
câu chuyện giữa tôi và anh đã chết lặng trong miền ký ức, sao tôi còn nuôi ảo
tưởng về một cuộc hồi sinh?
Phải chăng con người khác
nhau nhiều thứ và chỉ giống nhau ở những bi kịch? Hay tất cả những gì vừa xảy
ra cũng chỉ là ảo giác?
Tôi về phòng, mở tủ lạnh
tìm một loại thức uống nào có thể giúp cho mình tỉnh táo, nhưng chẳng tìm thấy
gì.
Ngả lưng xuống giường, tôi
chợt thấy hoang mang và buồn thảng thốt. Nhắm mắt lại, tôi vẫn thấy những ánh
nhìn và những gương mặt chồng lấp lên nhau, mịt mờ và hỗn độn.
Tôi vùng dậy gom hết quần
áo và vật dụng xếp vào vali. Có lẽ tôi lại phải đi, dù chưa biết nơi nào là điểm
đến.
Tôi đang loay hoay đóng nắp
vali thì có tiếng gõ cửa. Nhân viên lễ tân khách sạn bê trên tay một lẵng salem
màu tím ngát.
-
Chị có điện hoa- Anh ta nói và
nâng lẵng hoa với vẻ cẩn trọng.
Tôi mời anh vào phòng, bảo
anh đặt lẵng hoa lên bàn và bảo :
-
Cảm ơn anh đã mang hoa đến, nhưng
tôi không nghĩ đây là lẵng hoa được gửi cho tôi. Không ai biết tôi đang ở địa chỉ
này.
Nhân viên lễ tân mỉm cười
nhưng nói rất nghiêm trang :
-
Trước khi gõ cửa, tôi đã nhìn kỹ
số phòng. Quầy lễ tân đang giữ chứng minh thư của chị. Chẳng lẽ chị không nghĩ
rằng có ai đó gửi hoa chúc mừng sinh nhật của mình sao?
Quả thật tôi không nhớ ngày
sinh của mình, cái ngày mà đối với nhiều người là rất đỗi quan trọng. Nhưng món
quà này là của ai? Anh thanh niên bảo người gửi yêu cầu giữ bí mật thông tin và
anh buộc phải làm như vậy.
Lẵng hoa được cắm khá sơ
sài, nhưng salem chỉ đạt đến vẻ đẹp viên mãn trong sự phồn sinh hoang dại của tự
nhiên chứ không phải do bàn tay con người bài trí. Chắc chắn đây không phải là
ý tưởng của anh. Anh chỉ thích những gì rực rỡ. Nhưng của người nào thì tôi
không đoán được. Hay lại là một sự nhầm lẫn trong rối bời ảo giác cộng với một
chút trùng hợp ngẫu nhiên?
Tôi nói với anh thanh niên
rằng tôi rất vui nếu đây là một lời chúc mừng sinh nhật được gửi đến cho mình.
Nhưng tôi sắp trả phòng để ra đi, nên muốn gửi lại lẵng hoa ở quầy lễ tân như một
món quà lưu niệm. Anh ngẫm nghĩ một thoáng, rồi chấp thuận lời đề nghị đó và
mang lẵng hoa đi.
Không phải tôi cố chấp đến
mức phủ nhận cái ngày mình bắt đầu hiện diện trong cuộc sống. Nhưng tôi không
dám tin vào những thứ quá mong manh. Linh cảm của tôi đã bị chi phối bởi quá
nhiều ám ảnh. Và tôi nhận thấy cái đẹp luôn là kẻ tiền trạm của nỗi buồn.
Nhưng dẫu sao, những bông
hoa li ti màu tím ngát cũng gợi lên trong tôi một bình nguyên hoang sơ và chan
hòa ánh nắng. Biết đâu nơi ấy lại chẳng là điểm dừng chân sắp tới của tôi trong
cuộc hành trình?
10/11/2006