1.
Khái lược về phái
Shirakaba
Phái Shirakaba là một trào lưu
xuất hiện trong tiến trình hiện đại hóa văn học Nhật Bản, cụ thể là trên văn đàn thời Taisho với không khí sôi nổi của nhiều giọng
điệu, nhiều tư tưởng và lối viết.
Tên gọi “Shirakaba” là tên của
tạp chí văn nghệ do một nhóm nhà văn vốn là bạn học ở trường Gakushuin sáng lập,
được phát hành mỗi tháng trong khoảng thời gian 1910 – 1923. Hầu hết các nhà
văn trong nhóm đã thân nhau từ lúc còn đi học, có hoàn cảnh xuất thân tương đối
giống nhau, đều có nhiệt tình đối với việc thưởng thức nghệ thuật và sáng tác
văn chương, chia sẻ cùng nhau và có ảnh hưởng lẫn nhau về quan niệm văn học và
đường lối sáng tác. Vì vậy, khi tạp chí Shirakaba
được thành lập, các nhà văn trong nhóm thực hiện tạp chí cũng đồng thời được biết
đến như là một văn phái nổi bật trên văn đàn Taisho với những nét mới và độc lập
trong quan niệm nghệ thuật và phong cách sáng tác. Tên gọi “Shirakaba” do đó được
dùng để chỉ cả văn phái lẫn tạp chí văn nghệ do văn phái này thực hiện.
Phái Shirakaba xuất hiện trên
diễn đàn văn nghệ thời Taisho trong không khí sôi nổi của làn sóng tư tưởng đề
cao giá trị của con người, do ảnh hưởng của phong trào dân chủ và chủ nghĩa tự
do. Với khuynh hướng coi trọng con người cá nhân theo quan niệm của chủ nghĩa
lý tưởng và chủ nghĩa nhân đạo, các nhà văn Shirakaba thể hiện một lối viết mới,
trong đó hình ảnh con người được miêu tả theo hướng khẳng định, khác với phong
cách biểu hiện của chủ nghĩa tự nhiên – vốn là một trường phái sáng tác nổi bật
của văn đàn Nhật Bản trong thập niên đầu tiên của thế kỷ XX. Tuy không trực tiếp
thể hiện quan điểm phản đối cách biểu đạt của chủ nghĩa tự nhiên, nhóm
Shirakaba thường được các nhà phê bình nhắc đến như là một trào lưu văn học đối
lập với chủ nghĩa tự nhiên vì chủ trương không tán thành việc loại bỏ hoặc xem
nhẹ yếu tố chủ quan khi miêu tả con người trong sáng tác.
Tạp chí Shirakaba là thành tựu văn nghệ nổi bật nhất, là nơi kết nối hoạt động
văn nghệ của các nhà văn trong nhóm và cũng là cơ sở để cả nước biết đến sự tồn
tại của nhóm Shirakaba trên diễn đàn văn học đương thời. Điểm đặc biệt của nhóm
Shirakaba là không chỉ có đam mê trong lĩnh vực sáng tác văn chương mà còn thể
hiện khuynh hướng yêu thích mỹ thuật phương Tây, đặc biệt là tác phẩm hội họa của
các họa sĩ thuộc trường phái tả thực và trường phái ấn tượng. Do đó, bên cạnh
việc giới thiệu sáng tác của các nhà văn trong nhóm và đăng những bài phê bình
văn học của các nhà văn Nhật Bản đương thời, tạp chí Shirakaba còn có chuyên mục giới thiệu những tác phẩm nổi bật của hội
họa phương Tây và thường có bài viết giới thiệu chân dung các nghệ sĩ lớn của mỹ
thuật phương Tây như Rodin, van Gogh, Gaugin, Cézan v.v...
Với việc thực hiện tạp chí Shirakaba trong 13 năm liên tục, các nhà
văn trong nhóm đã khẳng định được vị trí của một trào lưu văn nghệ có vai trò
quan trọng trên văn đàn Nhật Bản thời Taisho. Đồng thời, xoay quanh hoạt động của
tạp chí cũng như qua nhiều lần tổ chức triển lãm mỹ thuật, nhóm Shirakaba đã
thu hút sự quan tâm của nhiều nhà văn tiền bối, quy tụ được sự cộng tác của nhiều
nhà văn – nghệ sĩ đương thời, tạo được mối quan hệ đối thoại, giao lưu trên diễn
đàn văn nghệ trong nước và thế giới. Dấu ấn của những hoạt động đó ngày nay còn
lưu lại trong kho tư liệu của Bảo tàng văn học Nhật Bản hiện đại tại Tokyo, Bảo
tàng văn học Shirakaba tại tỉnh Chiba và Bảo tàng mỹ thuật Kiyoharu Shirakaba tại
tỉnh Yamanashi.
Do ảnh hưởng của trận động đất
lớn tại vùng Kanto năm 1923, tạp chí Shirakaba
đã bị đình bản, chấm dứt thời kỳ các nhà văn trong nhóm gắn bó chặt chẽ vì một
công việc chung. Tuy nhiên, sau thời điểm này các thành viên trong nhóm – lúc
đó đều là những nhà văn có tên tuổi của văn học Nhật Bản hiện đại – vẫn tiếp tục
theo đuổi con đường nghệ thuật cho đến cuối đời. Không chỉ để lại một sự nghiệp
văn chương phong phú, nhiều nhà văn trong nhóm còn được tặng huân chương văn
hóa vì những đóng góp có ý nghĩa cho tiến trình phát triển văn hóa – văn nghệ
trong cả nước. Vì vậy, tuy trong sáng tác – và cả trong đời sống cá nhân của
các nhà văn – còn thể hiện những hạn chế nhất định về lối viết và tư tưởng,
nhóm Shirakaba đã để lại một dấu ấn sâu đậm trong số những trào lưu văn nghệ xuất
hiện đồng thời hay liên tiếp trong tiến trình hiện đại hóa văn học cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX.
2.
Những hoạt động mỹ thuật gắn với việc thực hiện tạp
chí Shirakaba
Cũng như trên
lĩnh vực văn học, những đóng góp của phái Shirakaba trên lĩnh vực mỹ thuật chủ
yếu được thực hiện thông qua tạp chí văn nghệ Shirakaba, và trong số những
thành viên của nhóm thì Arishima Ikuma và Mushanokoji Saneatsu là có thành tựu
về hoạt động mỹ thuật nhiều hơn cả.
Thành tựu mỹ
thuật của Arishima Ikuma trong thời gian thực hiện tạp chí Shirakaba có
nguồn gốc từ những kinh nghiệm và hoạt động của ông tại châu Âu trong quá trình
du học. Arishima may mắn được học hội họa phương Tây tại những nơi được xem là
trung tâm của nền mỹ thuật phương Tây là Ý và Pháp, được tiếp cận với những kiến
thức và thành tựu mới nhất của hội họa châu Âu. Trong ba năm đầu du học tại
Rome, Arishima Ikuma đã theo học tại khoa ký họa ở trường mỹ thuật và tham gia
sinh hoạt nghệ thuật tại học viện French Academy. Ông
được học cả nghệ thuật cổ điển và mỹ thuật hiện đại nhưng đặc biệt yêu thích hội
họa của trường phái ấn tượng. Sau đó, ông đã cùng với Arishima Takeo đi du lịch
vòng quanh châu Âu và quyết định chuyển sang Paris để tiếp tục học về hội họa,
kết hợp với trau dồi kiến thức về điêu khắc. Mùa thu năm 1908, Arishima Ikuma
được xem triển lãm tưởng niệm Paul Cézanne tại
Paris và bị chinh phục bởi lối vẽ phóng khoáng, mạnh mẽ và thuần khiết của họa
sĩ này. Từ đó, ông quyết tâm rèn luyện theo phương pháp của trường phái ấn tượng
để thể hiện đối tượng miêu tả bằng cái nhìn trực tiếp từ tâm hồn chân thật,
trong sáng của con người cá nhân.
Với tình yêu
nghệ thuật, niềm say mê học hỏi vốn có và tận dụng những điều kiện thuận lợi
trong thời gian du học tại châu Âu, Arishima Ikuma đã thực hiện nhiều cuộc gặp
gỡ thú vị với các họa sĩ bậc thầy và qua đó học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm, kiến
thức bổ ích cho hoạt động nghệ thuật. Ông cũng gặp gỡ nhiều họa sĩ, điêu khắc
gia Nhật Bản đang du học tại châu Âu như Umehara Ryuzaburo, Ogiwara Morie,
Saito Yori, Yamashita Shintaro, Shirataki Ikunosuke, Minami Kunzo v.v… và thường
xuyên đi lại, thiết lập mối quan hệ thân hữu với những nghệ sĩ này. Thông qua
việc giao lưu, sinh hoạt nghệ thuật với những nghệ sĩ cùng thế hệ đang du học tại
phương Tây, trên cơ sở những kiến thức và kinh nghiệm học hỏi trực tiếp từ môi
trường mỹ thuật châu Âu hiện đại với những bậc thầy về hội họa và điêu khắc như
Renoir, Rodin v.v…, Arishima Ikuma dần dần hiểu rõ về năng lực, cá tính, khuynh
hướng nghệ thuật của bản thân và cũng xác định được vị trí của mình trong thế
giới mỹ thuật hiện đại. Những hiểu biết và xác tín như vậy là điều kiện nền tảng
để ông có thể lựa chọn con đường phù hợp cho quá trình hoạt động nghệ thuật lâu
dài sau khi về nước, và thông qua những hoạt động đó thực hiện những đóng góp
quan trọng cho sự phát triển ngành mỹ thuật hiện đại tại Nhật Bản.
Sau khi về nước
(năm 1910), Arishima Ikuma gặp gỡ những bạn học trước đây như Shiga Naoya,
Mushanokoji Saneatsu và xúc tiến nhanh chóng việc thực hiện tạp chí văn nghệ Shirakaba,
với mục đích giới thiệu đến độc giả Nhật Bản đương thời những thông tin mới mẻ
và những tác phẩm xuất sắc của hội họa phương Tây, bên cạnh việc công bố những
sáng tác và bình luận văn chương của các nhà văn trong nhóm. Vì vậy, mỗi số
phát hành của tạp chí Shirakaba đều có chuyên mục dành riêng để giới thiệu
những tác phẩm của hội họa phương Tây. Bên cạnh đó, nhóm Shirakaba còn thực hiện
những chuyên san tập trung giới thiệu những nghệ sĩ bậc thầy của mỹ thuật châu
Âu như Paul Cézanne, Auguste Rodin, Pierre-Auguste Renoir, Vincent van Gogh
v.v…. Tạp chí này cũng thường xuyên đăng các bài bình luận về mỹ thuật của các
thành viên trong nhóm cũng như cộng tác viên.
Nhà nghiên cứu
Nishimura Shuko đã tổng kết những hoạt động mỹ thuật của phái Shirakaba trong
thời gian thực hiện tạp chí Shirakaba như bảng liệt kê dưới đây:
Thời điểm
|
Hoạt động mỹ thuật của phái Shirakaba và nội
dung tạp chí Shirakaba
|
Meiji
43 (1910)
|
Phát
hành số đầu tiên của tạp chí Shirakaba
Triển
lãm hội họa kỷ niệm thời gian du học tại châu Âu, do Minami Kunzo và Arishima
Ikuma thực hiện
Minami
Kunzo: 47 bức tranh màu nước và 7 bức tranh sơn dầu
Arishima
Ikuma: 2 bức màu nước, 67 bức sơn dầu, 1 bức tempera
Ngoài
ra còn trưng bày tác phẩm của Collin, Harada Naojiro, Inuzuka Kinuko và
Velasquez dưới dạng tranh chép
|
|
Liên
lạc với Rodin (về việc thực hiện chuyên san về Rodin) và gửi cho Rodin 30 bức
tranh khắc gỗ ukiyo
Thực
hiện chuyên san về Rodin
|
Meiji
44 (1911)
|
Thực
hiện chuyên san về Renoir
Thực
hiện chuyên san về Manet
Triển
lãm cá nhân của Yamawaki Shintoku. Kinoshita Mokutaro phê bình cách biểu đạt
của Yamawaki qua bài viết đăng trên tạp chí Chuo koron số phát hành
tháng 6.
Yamawaki
Shintoku phản hồi bài viết của Kinoshita, bắt đầu cuộc tranh luận về “sứ mệnh
của hội họa”.
Triển
lãm hội họa do nhóm Shirakaba tổ chức (tại Akasaka và Sankaido, Tokyo)
Nhóm
tác phẩm hội họa phương Tây gồm có 189 bức của 36 họa sĩ như Breadsley,
Klingel, Munch v.v...
Nhóm
tác phẩm hội họa Nhật Bản gồm có 119 bức của 21 họa sĩ như Yamawaki Shintoku,
Fujishima Takeji, Saito Yori, Yamashita Shintaro v.v...
Tiếp
nhận 3 tác phẩm điêu khắc của Rodin đáp lễ món quà 30 bức tranh khắc gỗ Nhật
Bản
|
Meiji
45 (1912)
|
Triển
lãm mỹ thuật lần thứ 4 do nhóm Shirakaba tổ chức (tại Akasaka và Sankaido,
Tokyo).
Tác
phẩm trưng bày gồm có 3 tác phẩm điêu khắc do Rodin gửi tặng, một bức họa của
Renoir thuộc sở hữu của Yamashita Shintaro và các tác phẩm ký họa, sơn dầu của
Vogeler, Yamawaki Shintoku và điêu khắc của Leach.
Triển
lãm mỹ thuật lần thứ 5 do nhóm Shirakaba tổ chức (tại Thư viện Kyoto, công
viên Okazaki, Kyoto).
Trưng
bày những tác phẩm khắc đá của Toulouse-Lautrec, tác phẩm điêu khắc của
Breadsley, Klinger, Munch bổ sung vào những tác phẩm đã được trưng bày trong
đợt triển lãm lần thứ 4.
Thực
hiện chuyên san về Vincent van Gogh
|
Taisho
2 (1913)
|
Triển
lãm mỹ thuật lần thứ 6 do nhóm Shirakaba tổ chức (tại Chúng nghị viện,
Tokyo).
Trưng
bày những tác phẩm hội họa của Cézanne, van Gogh, Gauguin, Matisse, tác phẩm
khắc đá của Toulouse-Lautrec, khắc đồng của Munch v.v...
Triển
lãm tranh sơn dầu của Umehara Ryutaro do nhóm Shirakaba tổ chức (tại Kanda)
Trưng
bày 111 tác phẩm được sáng tác ở châu Âu, trong đó có những bức nổi bật như
“Chân dung tự họa”, “Sợi dây chuyền vàng” v.v...
Thực
hiện chuyên san về Gustave Courbet
|
Taisho
3 (1914)
|
Triển
lãm hội họa phương Tây do Hội giáo dục Suwa (thuộc Trường trung học nữ Suwa)
tổ chức, trưng bày những tác phẩm thuộc sở hữu của nhóm Shirakaba
Kỷ
niệm 5 năm thành lập Shirakaba. Thực hiện chuyên san về William Blake.
|
Taisho
4 (1915)
|
Triển
lãm mỹ thuật lần thứ 7 do nhóm Shirakaba tổ chức (tại Bảo tàng mỹ thuật
Hibiya, Yuraku-cho, Tokyo).
Trưng
bày 150 tác phẩm, gồm 15 bức họa của Blake và các tác phẩm ký họa của Goya,
Rembrandt, Michelangelo v.v...
Triển
lãm mỹ thuật lần thứ 7 do nhóm Shirakaba tổ chức tại Kyoto (Thư viện Kyoto,
công viên Okazaki, Kyoto). Ngoài những tác phẩm đã trưng bày tại triển lãm ở
Tokyo còn có thêm 60 bức họa của Redon và một số tác phẩm của các danh họa
khác như Leonardo de Vinci, Tintoretto v.v...
|
Taisho
5 (1916)
|
Tạp
chí Shirakaba bị cấm phát hành vì in tranh bìa của Mantegna
|
Taisho
6 (1917)
|
Thông
qua tạp chí Shirakaba, kêu gọi thành lập bảo tàng mỹ thuật Shirakaba
Triển
lãm tác phẩm của Bernard Leach (tại Kanda)
|
Taisho
7 (1918)
Tháng
11
Tháng
12
|
Thực
hiện chuyên san tưởng niệm Rodin
Tổ
chức buổi độc xướng của Yanagi Kaneko tại
Kyoto và Kobe nhằm gây quỹ cho việc thành lập Bảo tàng mỹ thuật Shirakaba
Triển
lãm mỹ thuật lần thứ 8 do nhóm Shirakaba tổ chức (tại Akasaka và Sankaido,
Tokyo).
Trưng
bày 3 tác phẩm điêu khắc đồng của Rodin và những tác phẩm của Hy Lạp, của thời
kỳ Phục Hưng và mỹ thuật châu Âu hiện đại.
Triển
lãm mỹ thuật lần thứ 8 do nhóm Shirakaba tổ chức (tại Thư viện Kyoto). Nội
dung giống như lần triển lãm tại Tokyo.
Tổ
chức buổi trình diễn piano của Kuno Hisa tại Trường âm nhạc Tokyo nhằm gây quỹ
cho việc thành lập Bảo tàng mỹ thuật Shirakaba
|
Taisho
8 (1919)
|
Kỷ
niệm 10 năm thành lập Shirakaba
Tổ
chức đại hội kỷ niệm thành lập Shirakaba (tại Kanda). Các diễn giả phát biểu
trong đại hội gồm 6 người là Nagayo Yoshiro, Mushanokoji Saneatsu, Yanagi
Muneyoshi, Koizumi Magane, Kondo Keiichi và Kishida Ryusei.
Tổ
chức triển lãm cá nhân của Kishida Ryusei kỷ niệm 10 năm thành lập Shirakaba
(tại Tokyo). Trưng bày 108 tác phẩm được sáng tác từ 1913, do chính tác giả lựa
chọn.
Tổ
chức triển lãm cá nhân của Kishida Ryusei kỷ niệm 10 năm thành lập Shirakaba
(tại Thư viện Kyoto)
Triển
lãm những tác phẩm phục chế của William Blake (tại Kanda)
|
Taisho
9 (1920)
|
Thực
hiện chuyên san kỷ niệm Bernard Leach
Triển
lãm tác phẩm của Leach
|
Taisho
10 (1921)
|
Triển
lãm lần đầu tiên tại Bảo tàng mỹ thuật Shirakaba.
Trưng
bày 14 tác phẩm gồm tranh sơn dầu, ký họa và tranh màu nước của Cézanne,
tranh sơn dầu của van Gogh, ký họa của Rodin, tác phẩm điêu khắc của Durer,
ký họa của Delacroix, ký họa của Chavannes v.v...
Triển
lãm mỹ thuật dân tộc Triều Tiên
|
Taisho
11 (1922)
|
Triển
lãm cá nhân của Kono Michisei (tại Kanda). Trưng bày 10 bức sơn dầu và 50 bức
ký họa.
Triển
lãm cá nhân của Tsubaki Sadao (tại Kanda). Trưng bày khoảng 30 bức sơn dầu,
màu nước và ký họa.
Triển
lãm đồ gốm của Leach.
|
Taisho
12 (1923)
|
Tạp
chí Shirakaba đình bản do động đất lớn tại vùng Kanto, tổng cộng đã
phát hành 160 số.
|
Qua
bảng trên, có thể thấy hoạt động của nhóm Shirakaba trên lĩnh vực mỹ thuật được
tổ chức thường xuyên, đa dạng và có quy mô lớn. Với nhiều cuộc triển lãm mỹ thuật
trong suốt thời gian thực hiện tạp chí Shirakaba, nhóm nghệ sĩ này đã tạo
điều kiện cho người dân trong nước tiếp xúc với thành tựu của mỹ thuật phương
Tây trong nhiều giai đoạn, qua tác phẩm của nhiều nghệ sĩ nổi tiếng và đặc biệt
tạo ấn tượng sâu sắc về hội họa phương Tây hiện đại qua việc trưng bày, giới
thiệu tác phẩm của nhiều họa sĩ bậc thầy của châu Âu thế kỷ XIX – XX, chủ yếu
thuộc trường phái ấn tượng và tả thực. Thêm vào đó, nhóm Shirakaba còn thực hiện
nhiều chuyên san về các nghệ sĩ nổi bật của mỹ thuật châu Âu nhằm cung cấp cho
độc giả cũng như giới nghệ sĩ trong nước nhiều thông tin chi tiết hơn về thành
tựu nghệ thuật đỉnh cao của phương Tây và thế giới, tạo điều kiện để xúc tiến
những hoạt động giao lưu văn hóa – nghệ thuật giữa Nhật Bản và phương Tây. Tuy
có ý kiến cho rằng việc giới thiệu mỹ thuật phương Tây theo cách thức mà nhóm
Shirakaba thực hiện là không hệ thống vì không theo trật tự niên đại của lịch sử
mỹ thuật, cũng như có ý kiến cho rằng giới thiệu Cézanne vào Nhật Bản ở thời điểm
đầu thế kỷ XX là còn quá sớm, nhưng nói chung những hoạt động mang tinh thần
tiên phong của nhóm Shirakaba cần được ghi nhận là những đóng góp rất quan trọng
cho việc xây dựng một nền mỹ thuật Nhật Bản hiện đại vừa bảo tồn được những
thành tựu cổ điển vừa ứng dụng được những kỹ thuật tối tân của châu Âu.
Để
thực hiện thành công một tạp chí có nội dung bao trùm trên cả hai lĩnh vực văn
chương và mỹ thuật, nhóm Shirakaba cũng phải kêu gọi nhiều nghệ sĩ và nhà
nghiên cứu mỹ thuật tham gia vào việc trình bày tạp chí, sưu tầm và giới thiệu
các tác phẩm nghệ thuật phương Tây và đóng góp ý kiến trên diễn đàn phê bình
nghệ thuật. Trên thực tế, tạp chí Shirakaba đã được thực hiện với sự góp
mặt của nhiều tên tuổi nổi bật trong giới mỹ thuật đương thời như các họa sĩ
Nakagawa Kazumasa, Umehara Ryuzaburo, Kishida Ryusei v.v…; các nhà nghiên cứu mỹ
thuật như Morita Kamenosuke, Kojima Kikuo v.v…
Điều thú vị là ở tạp chí Shirakaba, hai mảng nội dung văn chương
và mỹ thuật được trình bày trong một mối quan hệ gắn bó, tạo nên một không gian
sinh hoạt nghệ thuật phong phú và tự nhiên chứ không gây cảm giác về một sự lắp
ghép khiên cưỡng và rời rạc. Nền tảng quan trọng để đạt được thành công này có
lẽ là thiên hướng nghệ thuật tự nhiên của các thành viên Shirakaba. Hai thành
viên trụ cột của nhóm là Arishima Ikuma và Mushanokoji Saneatsu đều là những
tài năng trên cả hai lĩnh vực văn chương và hội họa. Với năng khiếu bẩm sinh và
vốn kiến thức phong phú, sắc sảo nhờ được đào tạo trong môi trường giáo dục tiến
bộ, rộng mở, họ đã trở thành những nghệ sĩ lớn và có thể kết hợp hai lĩnh vực
nghệ thuật một cách tự nhiên trong hoạt động sáng tác cũng như lý luận – phê
bình. Mặt khác, nếu suy ngẫm sâu xa hơn, có thể lý giải sự kết hợp văn chương
và mỹ thuật ở phái Shirakaba từ nhân sinh quan và quan niệm nghệ thuật của các
thành viên trong nhóm văn nghệ này.
Hướng đến chủ nghĩa lý tưởng và
chủ nghĩa nhân đạo, các nhà văn nhóm Shirakaba chủ trương đề cao con người và
phát huy mọi tố chất tốt đẹp ở từng cá nhân. Văn chương và mỹ thuật trước hết
là các môn nghệ thuật, là những “nghề chơi” của con người nhưng đồng thời cũng
là những hoạt động sáng tạo mà qua đó tâm hồn của con người được thăng hoa cùng
cái đẹp. Nói cách khác, với tư cách là bộ môn nghệ thuật, cả mỹ thuật và văn
chương đều có tác dụng giáo dục con người, đưa tinh thần con người đến gần với
cái đẹp và sự thanh cao, nhưng trong khi văn chương mang vẻ đẹp trừu tượng và
kích thích khả năng tưởng tượng của người sáng tác cũng như người cảm nhận thì
mỹ thuật thể hiện vẻ đẹp rõ ràng, sinh động bằng sắc màu và đường nét. Sự kết hợp
của hai bộ môn này làm cho một tập san văn nghệ vừa có sức cuốn hút của cái đẹp
được cảm nhận trực tiếp, lại vừa có vẻ đẹp sâu sắc ẩn giấu trong lớp vỏ ngôn từ,
đòi hỏi người thưởng thức phải ngẫm ngợi và suy tưởng.
Cũng có thể hiểu rằng sự kết hợp
của văn chương và mỹ thuật ở tạp chí Shirakaba
xuất phát từ quan niệm về đường lối biểu đạt. Nhìn lại các hoạt động mỹ thuật của
nhóm Shirakaba thì thấy những thành viên của nhóm này đặc biệt quan tâm đến
phong cách của trường phái ấn tượng và tả thực. Còn trong lĩnh vực văn chương
thì các thành viên Shirakaba chủ trương thể hiện một cách sâu sắc và tinh tế đời
sống tâm lý của con người. Từ đó, có thể thấy trường phái này đề cao việc biểu
đạt những gì phức tạp và tinh vi bằng thủ pháp gây ấn tượng và lối miêu tả chân
thực, tỉ mỉ. Họ đã tìm thấy điều đó trong hội họa ấn tượng của phương Tây và
trong thể loại tiểu thuyết hiện đại, nên tạp chí Shirakaba vừa là nơi mà các nghệ sĩ trong nhóm bày tỏ quan niệm nghệ
thuật đồng thời là nơi thể nghiệm và là diễn đàn mở rộng để phê bình, định hướng
và điều chỉnh sự phát triển đó.
Nếu như mỹ thuật làm cho tạp
chí Shirakaba trở nên nổi bật vì vẻ đẹp
và sự mới mẻ so với những tạp chí văn nghệ đương thời thì ngược lại, tính văn
chương làm nên chiều sâu tư tưởng cho hoạt động mỹ thuật của phái Shirakaba. Hoạt
động mỹ thuật của nhóm này không chỉ có việc sáng tác và trưng bày tại các cuộc
triển lãm mà còn bao gồm cả lý luận – phê bình mỹ thuật diễn ra thường xuyên và
sôi nổi trên tạp chí Shirakaba, thậm
chí có khi trở thành cuộc tranh luận về một vấn đề phức tạp nào đó trong lý luận
nghệ thuật như cuộc “bút chiến” giữa Yamawaki Shintoku, Kinoshita Mokutaro và
Mushanokoji Saneatsu xoay quanh vấn đề giá trị của tác phẩm hội họa và việc biểu
đạt cái tôi cá nhân của nghệ sĩ, khởi đầu từ bài viết của Kinoshita Mokutaro
đăng trên tạp chí Chuo koron với nội
dung phê bình tranh vẽ của Yamawaki Shintoku trong cuộc triển lãm cá nhân của họa
sĩ này tháng 4 - 1911. Trong cuộc “bút chiến” này, Mushanokoji Saneatsu đã tham
gia bằng nhiều bài viết đăng trên tạp chí Shirakaba,
dùng lập luận của chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa lý tưởng như chủ trương của
ông trong đời sống và trong sáng tác văn chương để nói về hình thức “nghệ thuật
vì cái tôi” trong hội họa. Cách lý luận của Mushanokoji có thể gây cảm tưởng là
nhà văn đẩy vấn đề tranh luận theo hướng triết lý về bản chất và lối sống của
con người hơn là làm rõ bản chất của nghệ thuật, nhưng mặt khác cũng là một
cách thể hiện trình độ thưởng thức mỹ thuật của giới nghệ sĩ đương thời, góp phần
nâng cao chất lượng sáng tác và làm cho công chúng quan tâm nhiều hơn đến giá
trị của mỹ thuật hiện đại.
3. Đóng góp từ các thân hữu quan trọng của
nhóm Shirakaba
Nói về hoạt động mỹ thuật của
nhóm Shirakaba cũng cần phải kể đến những đóng góp độc đáo của Yanagi Muneyoshi
và mối quan hệ bằng hữu của ông với nghệ sĩ – nhà nghiên cứu nghệ thuật gốm
Bernard Leach.
Yanagi Muneyoshi (1889 – 1961)
là nhà tư tưởng – tôn giáo đồng thời là người sưu tầm và nghiên cứu nghệ thuật
dân gian, chủ yếu là đồ gốm mỹ nghệ. Yanagi cũng trải qua thời kỳ học phổ thông
tại Gakushuin và sau đó tốt nghiệp Đại học Đế quốc Tokyo, ngành triết học – tôn
giáo phương Tây. Ông tham gia sinh hoạt văn nghệ với nhóm Shirakaba trong thời
gian học ở Gakushuin và đại học nhưng không đi theo con đường văn chương hay hội
họa phương Tây mà vốn có niềm say mê riêng với những sản phẩm mỹ nghệ dân gian
và chủ trương đề cao “cái đẹp thực tế” của những vật dụng này. Ông cũng dành
nhiều tâm huyết cho việc vận động bảo tồn, phát triển ngành mỹ nghệ dân gian và
thành lập Bảo tàng mỹ nghệ dân gian Nhật Bản. Tuy là một gương mặt không mấy nổi bật trong hoạt động của nhóm Shirakaba
trong thời gian thực hiện tạp chí Shirakaba
nhưng Yanagi lại có nhiều đóng góp quan trọng cho ngành mỹ thuật dân gian Nhật
Bản và Đông Á, và ông đã thực hiện những hoạt động có ý nghĩa lớn trong lĩnh vực
này trong suốt nhiều năm sau khi tạp chí Shirakaba
đình bản.
Yanagi Muneyoshi đặc biệt quan
tâm đến nghệ thuật gốm sứ cũng như tranh dân gian Triều Tiên sản phẩm mỹ nghệ
truyền thống của Okinawa (đặc biệt là mỹ nghệ ở thời kỳ văn hóa Ryukyu). Ông đã
dành nhiều thời gian cho việc sưu tập, nghiên cứu mỹ thuật dân gian Triều Tiên
và là một trong những người chủ trương thành lập Bảo tàng mỹ thuật dân gian Triều
Tiên
vào năm 1924. Từ 1938 đến 1940 ông đến Okinawa để tập trung nghiên cứu những đặc
trưng văn hóa của khu vực này, sau đó đã viết nhiều công trình khảo cứu quan trọng
như Văn nhân Okinawa, Văn hóa Okinawa, Đồ gốm Okinawa v.v..., về sau được tập hợp trong bộ sách Yanagi Muneyoshi toàn tập, do Chikuma
shobo xuất bản trong khoảng thời gian 1980 – 1992.
Ngoài ra, Yanagi Muneyoshi còn
thực hiện các tạp chí chuyên về văn nghệ dân gian, với sự giúp đỡ và cộng tác của
Bernard Leach và nhiều nghệ nhân Nhật Bản.
Tạp chí Mingei 民藝 (Văn nghệ dân gian) do Yanagi Muneyoshi sáng lập trong quá trình thực hiện
phong trào “vận động vì văn nghệ dân gian” cùng với hai nghệ nhân trong ngành gốm
là Hamada Shoji và Kawai Kanjiro, được phát hành lần đầu tiên năm 1926. Mingei là diễn đàn để giới thiệu và bình
luận về sản phẩm của các loại hình mỹ nghệ dân gian như đồ gốm, đồ sơn mài hay
các loại vải được dệt và nhuộm theo phương thức thủ công truyền thống. Những
ngành thủ công này không được xem là mỹ thuật (fine-art) theo quan niệm phương
Tây nhưng lại là một bộ phận không thể thiếu của văn hóa Nhật Bản, thậm chí có
thể nói là những lĩnh vực thể hiện một cách rõ ràng nhất ý thức thẩm mỹ truyền
thống của người Nhật. Vì vậy, tạp chí Mingei
được thực hiện với mục đích lôi cuốn sự chú ý của công chúng đến “cái đẹp thực
tế” đặc trưng của thẩm mỹ Nhật Bản thể hiện trên các sản phẩm của mỹ nghệ dân
gian, hướng đến việc bảo tồn, phát triển những ngành nghề thủ công truyền thống
và giới thiệu ra thế giới vẻ đẹp riêng của mỹ nghệ dân gian Nhật Bản. Những người
thực hiện tạp chí Mingei đều là những
nghệ nhân yêu vẻ đẹp thuần khiết và chân thực của các ngành thủ công mỹ nghệ
truyền thống, đã dành thời gian đi khắp các vùng miền trên đất nước Nhật Bản để
sưu tầm, nghiên cứu và giới thiệu vẻ đẹp giản dị mà độc đáo của những vật dụng
được chế tác tinh xảo, làm cho thế giới biết đến một khía cạnh đặc sắc của văn
hóa truyền thống Nhật Bản.
Tạp chí Mingei được xuất bản liên tục đến năm 1945 thì bị ngưng do tình
hình chiến sự căng thẳng. Sau chiến tranh, tạp chí này được Hiệp hội nghệ thuật
dân gian Nhật Bản
tiếp tục thực hiện cho đến ngày nay. Hiệp hội nghệ thuật dân gian Nhật Bản cũng
là một tổ chức do Yanagi Muneyoshi sáng lập nhằm vận động cho việc bảo tồn và
phát triển văn nghệ dân gian, nay đã phát triển thành một tổ chức lớn, gồm 32
chi hội có trụ sở tại các tỉnh thành trên toàn quốc từ Aomori (vùng Tohoku) đến
Okinawa.
Yanagi Muneyoshi cũng là người
chủ trương thực hiện tạp chí Kogei 工藝 (Thủ công mỹ nghệ),
phát hành trong khoảng thời gian từ 1931 đến 1951, tổng cộng 120 số. Kogei cũng là tạp chí chuyên về giới thiệu
sản phẩm của các ngành thủ công mỹ nghệ truyền thống ở Nhật Bản. Kogei thường đăng các bài viết về lý luận
và thực tiễn sáng tạo của các loại hình thủ công mỹ nghệ. Ngoài việc giới thiệu
các sản phẩm thủ công qua tranh vẽ và hình ảnh, những người thực hiện còn đính
vào tạp chí cả những vật mẫu như vải, giấy, chất sơn để mang đến cho người đọc
những thông tin thực tế và chi tiết về sản phẩm được giới thiệu.
Cuối cùng, nói đến những hoạt động
trên lĩnh vực mỹ thuật của nhóm Shirakaba còn phải kể đến sự đóng góp của
Bernard Howell Leach (1887 – 1979), một nhà nghiên cứu mỹ nghệ người Anh có mối
quan hệ thân thiết với các thành viên của nhóm Shirakaba và là một người yêu
thích sản phẩm thủ công mỹ nghệ ở các nước Đông Bắc Á. Leach sinh ở Hồng Kông
và học về mỹ thuật ở London nhưng quá trình nghiên cứu mỹ nghệ phương Đông của
ông chủ yếu được thực hiện trong những thập niên đầu thế kỷ XX là khoảng thời
gian ông sinh sống tại Nhật. Ông quen biết họa sĩ Takamura Kotaro trong thời
gian Takamura du học ở London. Sau khi đến Tokyo năm 1909, Leach kết bạn với
Yanagi Muneyoshi nên thường đi lại giao du với nhóm Shirakaba và tham gia vào
những sinh hoạt văn nghệ của nhóm này.
Bernard Leach đã nghiên cứu để
chế tác những sản phẩm mỹ nghệ kết hợp cả triết lý và mỹ học của phương Đông và
phương Tây, hướng đến việc bảo tồn, phát triển ngành gốm mỹ nghệ ở Nhật Bản –
Triều Tiên – Trung Quốc đồng thời phục chế những sản phẩm gốm truyền thống ở
các nước Tây Âu như Anh, Đức. Ông cũng đã hợp tác với Yanagi Muneyoshi trong những
hoạt động kêu gọi bảo tồn ngành mỹ nghệ và thành lập Bảo tàng nghệ thuật dân
gian. Năm 1940, Leach đã xuất bản công trình A Potter’s Book (Sách của nhà làm gốm) trình bày tư tưởng của ông về
kỹ thuật và triết lý trong nghệ thuật chế tác đồ gốm. Với công trình này, ông
thực sự trở thành một chuyên gia tên tuổi trong lĩnh vực nghiên cứu mỹ nghệ
phương Đông. Những sản phẩm mỹ nghệ do ông chế tác hiện nay vẫn được trưng bày
tại Bảo tàng Victoria and Albert, London. Leach đã từng nhận giải thưởng của Quỹ
giao lưu quốc tế Nhật Bản vì những đóng góp của ông cho ngành mỹ nghệ ở Nhật và
cho việc giao lưu văn hóa – nghệ thuật giữa Nhật Bản với các nước phương Tây.
Lời kết
Những hoạt động nhằm kêu gọi việc
bảo tồn và phát triển các ngành thủ công mỹ nghệ truyền thống Nhật Bản đồng thời
hướng đến việc giới thiệu vẻ đẹp đặc trưng của nghệ thuật dân gian Nhật Bản với
thế giới tạo nên một nét mới trong nội dung hoạt động mỹ thuật của nhóm
Shirakaba. Điều đó cũng góp phần làm rõ hơn tính tương chiếu của văn hóa Nhật Bản,
đặc biệt trong trường hợp có sự gặp gỡ của các yếu tố văn hóa khác nhau, thậm
chí tương phản nhau. Một mặt, những thành viên của nhóm Shirakaba rất tích cực
trong việc học hỏi, tiếp thu những thành tựu mới nhất, đặc sắc nhất của mỹ thuật
phương Tây và thông qua tạp chí Shirakaba cũng như các cuộc triển lãm nghệ thuật
để giới thiệu những thành tựu này với công chúng và giới nghệ sĩ trong nước, hướng
đến việc phổ biến những kỹ thuật, phương pháp hiện đại của mỹ thuật phương Tây
vào Nhật Bản. Mặt khác, một số thành viên và cộng tác viên của nhóm lại có
khuynh hướng đề cao vẻ đẹp giản dị, thuần phác và mang hơi thở cuộc sống của
các sản phẩm mỹ nghệ như đồ gốm, đồ sơn mài và vải nhuộm thủ công. Nhóm nghệ sĩ
theo hướng này cũng hết sức nhiệt tình trong việc sưu tầm, nghiên cứu và giới
thiệu các sản phẩm mỹ nghệ Nhật Bản qua các tạp chí chuyên ngành, làm cho thế
giới biết đến các ngành mỹ nghệ truyền thống của Nhật đồng thời tạo điều kiện
cho những ngành này được bảo tồn và phát triển mạnh hơn. Tuy vẫn còn tồn tại
nhiều ý kiến đánh giá khác nhau xung quanh các hoạt động này nhưng có lẽ ai
cũng dễ dàng công nhận rằng cả hai khuynh hướng nói trên đều thể hiện thái độ
tích cực và đúng đắn của người Nhật trong việc bảo tồn và tiếp thu văn hóa. Rõ
ràng việc tiếp thu, phổ biến mỹ thuật hiện đại phương Tây vào Nhật Bản và việc
vận động để bảo tồn các ngành mỹ nghệ truyền thống trong nước đều cần thiết cho
công cuộc hiện đại hóa Nhật Bản trong lĩnh vực văn hóa – văn nghệ đầu thế kỷ
XX. Nhờ đó mà Nhật Bản ngày nay vừa được biết đến như một đất nước của những sản
phẩm mỹ nghệ tinh xảo, phong phú lại vừa có một nền mỹ thuật hiện đại không kém
gì các nước Tây Âu.
Nhìn lại các hoạt động văn nghệ
của phái Shirakaba, có thể thấy tạp chí Shirakaba
do nhóm này thực hiện liên tục trong khoảng thời gian hơn 13 năm là một thành tựu
lớn. Shirakaba đã thể hiện đầy đủ vai
trò của một tạp chí văn nghệ bao gồm hai mảng nội dung là văn chương và mỹ thuật.
Sự kết hợp này khó có thể tìm thấy ở một trào lưu văn nghệ, đặc biệt là trong
tình hình hoạt động nghệ thuật tại các nước phương Đông. Thành công của tạp chí
Shirakaba cho thấy các thành viên của
nhóm Shirakaba là tầng lớp thanh niên ưu tú trong thời kỳ hiện đại hóa Nhật Bản.
Họ may mắn được theo học tại những trường có chất lượng giáo dục tốt trong nước
và được đào tạo bài bản tại phương Tây, nhờ đó có thể tiếp cận với những tri thức
mới mẻ về triết học và lý luận nghệ thuật. Đồng thời, họ cũng là những người có
tinh thần xây dựng đất nước, đã tận dụng vốn kiến thức và phát huy hết năng lực
cá nhân để đóng góp cho việc bảo tồn những giá trị nghệ thuật truyền thống và
xây dựng những giá trị về văn chương – nghệ thuật cho tiến trình hiện đại hóa
Nhật Bản. Đặc biệt nhóm Shirakaba đã thể hiện vai trò rất lớn trong việc xây dựng
nền mỹ thuật hiện đại Nhật Bản qua nhiều hoạt động thu hút sự tham gia của đông
đảo nghệ sĩ đương thời.
Tài
liệu tham khảo
Honda Shugo本田秋五, (1960),『「白樺」派の文学』 (Văn học của phái Shirakaba), 新潮文庫.
Honda Shugo本田秋五 (1968),『「白樺」派の作家と作品』 (Tác giả và tác phẩm
thuộc phái Shirakaba)、未來社.
Nishimura Shuko (2009), 西村修子『美術雑誌としての「白樺」にみる西洋美術認識』(Nhận thức về
mỹ thuật phương Tây trong tạp chí Shirakaba,
trong vai trò một tạp chí mỹ thuật), Journal
of East Asian Studies, No.7, 2009.3, pp.137 – 153.
Senuma Shigeki瀬沼茂樹 (1990)、日本文壇史19 白樺派の若人たち (Lịch sử văn đàn Nhật Bản tập 19 – Những nhà văn trẻ thuộc phái Shirakaba)、講談社文芸文庫.
Sekikawa Natsuo関川夏央 (2005), 白樺たちの大正 (Thời Taisho của những nhà văn Shirakaba), 文藝春秋.
Shirakaba『白樺 』創刊~10号 (Tạp chí Shirakaba – từ số 1 đến số 10), 日本近代文学間, 東京 (Kho tư liệu của Bảo tàng văn học hiện đại Nhật Bản, Tokyo).