Một dạo, khi tôi đến sống và làm việc tại
thành phố Vũng Tàu, hễ có bạn bè từ nơi khác đến chơi thì tôi lại đưa họ đi
thăm thú cảnh quan quanh thành phố. Vì quanh đi quẩn lại cũng chỉ có vài điểm
tham quan nên tôi chẳng cần phải đắn đo lựa chọn, nhưng cũng không đến nỗi “bế
tắc” vì chẳng biết mình nên đưa khách đi đâu, làm gì.
Còn khi sống ở Sài Gòn thì lại khác. Về
cơ bản, tôi không hứng thú với cuộc sống đô thị và hoạt động mua sắm, nên thường
rất băn khoăn nếu phải làm hướng dẫn viên bất đắc dĩ cho ai đó đến thăm Sài Gòn,
đặc biệt là khi những người khách ấy đến từ một xứ sở hiện đại, phồn thịnh và lịch
lãm.
Rồi bỗng nhiên, thời gian tạm trú ngắn
ngủi ở một nơi đất khách đã cho tôi cơ hội “tái phát hiện” vẻ đẹp của Sài Gòn một
cách rất tình cờ.
Trong khi những công viên trải rộng ngút
ngàn khiến du khách tản bộ phải chồn chân mỏi gối thì quán xá ở Tokyo chật hẹp
đến khó tin. Nhiều quán mì chỉ có chừng dăm bảy chiếc ghế xếp dọc theo một chiếc
bàn dài trong không gian rất hẹp. Những thực khách không có ghế ngồi thì phải đứng
mà ăn. Ăn vội vã rồi rời đi vội vã.
Những lúc tất bật vì công việc thì tôi cảm
nhận được trong sự chật hẹp vội vàng kia một thái độ nghiêm túc và một tinh thần
năng động đáng khâm phục, rồi tôi cũng thoải mái hòa mình vào trong một cộng đồng
như thế.
Nhưng nếu ta đi tìm một chút gì an nhàn
thư thả, một khoảng trống nào đấy để mơ mộng vẩn vơ?
Một lần, sau giờ trao đổi về đề tài
nghiên cứu, đang cùng nhau đi bộ ra ga tàu gần nhất thì giáo sư hướng dẫn hỏi
tôi có thời gian đi uống cà phê với thầy không. Lúc đó Tokyo đang trong đợt
nóng đỉnh điểm của mùa hè, và chúng tôi đang thả bước trên vỉa hè của những con
đường rộng, đi qua cây cầu nhỏ bắc trên một dòng kênh, đi trong tiếng ve sầu
inh ỏi dưới vòm cây xanh lá. Thật ra tôi lúc nào cũng vội
vì bao nhiêu công việc làm mãi vẫn chưa xong. Nhưng khoảnh khắc ấy hai từ “cà
phê” bỗng có sức hấp dẫn lạ lùng và đã “đánh bại” tôi đang chịu đựng cảm giác mệt
mỏi giữa mùa hè nóng bức!
Chúng tôi đi bộ thêm một chút dọc theo
con đường lớn chạy qua trước nhà ga. Khu phố này có thể được xem là một trong
những nơi khá thú vị của Tokyo với trụ sở của những trường đại học danh tiếng,
với nhiều cửa hàng sách và cửa hàng nhạc cụ. Nhưng rốt cuộc nơi chúng tôi vào uống
cà phê lại là... cửa hàng McDonald’s!
Sau mấy phút xếp hàng chờ đến lượt phục
vụ, chúng tôi mang hai cốc cà phê và một túi giấy nhỏ đựng khoai tây chiên đến
một góc nhỏ còn vừa đủ chỗ ngồi cho hai người. Rất nhiều khách hàng là học sinh
và sinh viên đã lấp kín các chỗ ngồi quanh đấy.
Người Nhật ứng xử rất tốt ở những chỗ
đông người, nên tuy quán hẹp và khách đông nhưng chẳng ai cảm thấy bị ai làm
phiền cả. Câu chuyện của hai thầy trò hôm ấy cũng rất vui, vì thầy hỏi thăm tôi
về chuyến đi leo núi Phú Sĩ mà tôi sẽ thực hiện trong tuần kế tiếp. Nhưng thật
lòng tôi đã rất thất vọng khi biết rằng mình sẽ uống cà phê ở McDonald’s. Nói
đúng hơn là trong tâm tưởng tôi, kể từ lúc theo thầy bước chân vào cửa hiệu, hương
vị quyến rũ của khái niệm “uống cà phê” đã hoàn toàn biến mất. Tôi chỉ có cảm
giác như mình đang ngồi tạm xuống một chỗ bên đường để nghỉ chân. Một chỗ mát mẻ
và có chút gì đó để giải khát. Còn thứ thức uống được gọi là cà phê ở Nhật thì
vốn dĩ đã chẳng có gì hấp dẫn đối với tôi.
Ngồi ở cái góc chật hẹp ấy, tôi nhớ lại
những lần “cà phê buông thả” ở Sài Gòn.
Nói “buông thả” là bởi vì chúng tôi có
thể ngồi la cà suốt ngày ở quán, cho đến lúc ra về cũng không cần nhớ là bao
nhiêu thời gian đã trôi qua.
Dĩ nhiên không phải là ngày nào cũng vậy.
Nhóm thường là ba hoặc bốn người chúng tôi dạo ấy đều đã có việc làm. Nhưng có
thời điểm cả ba người đều vừa làm việc vừa theo chương trình “phổ cập kiến thức”
sau đại học, nên ngoài những giờ phải làm việc và phải học trong trường thì
chúng tôi đến quán cà phê.
Đó là nơi mà chúng tôi có thể gặp nhau
trong cảm giác dễ chịu và thoải mái với những chiếc sofa rộng rãi và êm ái đặt ở
nơi mát mẻ, xung quanh là hoa lá xinh tươi.
Đó là một thái cực đối lập với những căn
phòng trọ chật hẹp và nóng bức trong không gian đô thị ngột ngạt của Sài Gòn. Ấy
là chưa kể đến đủ kiểu “đụng chạm” khác nếu chúng tôi kéo nhau cùng về một
trong những chỗ trọ như vậy.
Chúng tôi có thể cùng gặp nhau ở một nơi
nào đó rồi cùng đến quán cà phê yêu thích. Cũng có thể lần lượt đến và đợi nhau
ở địa chỉ quen thuộc. Và dù đến buổi sáng, buổi chiều hay buổi tối, dù chờ đợi
những bạn bè còn lại bao lâu thì tôi cũng cảm thấy dễ chịu vô cùng khi ngồi
trong không gian thoáng đãng cùng hoa cỏ thiên nhiên.
Có khi chúng tôi tập trung thành một
nhóm đông người, chọn một góc cà phê ưng ý rồi mải mê trò chuyện về chủ đề nào
đó. Cũng có khi chỉ có hai, ba người đến quán, chủ yếu là để làm bài tập cho
khóa học ở trường. Trò chuyện dăm ba câu rồi mỗi người lôi ra một xấp tài liệu,
miệt mài chăm chú trên máy tính suốt nhiều tiếng đồng hồ. Vậy mà vẫn cảm thấy dễ
chịu, vui vẻ vì được ngồi cùng bạn bè thân thiết.
Với chúng tôi, quán cà phê kiểu ấy không
phải là nơi bán thứ gì đó để giải khát tạm thời mà là một kiểu không gian tiện
nghi đa chức năng, bù đắp cho cuộc sống ngột ngạt tù túng trong phòng trọ. Bước
chân vào nơi ấy, dường như chúng tôi được tạm thời quên hết những khó chịu bức
bối khi đi qua những con đường kẹt xe ngập trong khói bụi dưới trời nắng chói
chang hay trong những cơn mưa tầm tã. Cho nên chúng tôi vẫn thường tìm đến những
không gian như thế mà không cần cà phê của quán phải đặc biệt thơm ngon.
Ngồi trong một góc chật hẹp ở Tokyo để uống
cà phê McDonald’s, khi nhớ đến kiểu “không gian cà phê” như thế, lần đầu tiên
tôi cảm thấy người dân Sài Gòn “hạnh phúc” hơn những người đang sống ở thành phố
cao sang hiện đại này. Và tôi chợt nghĩ rằng “không gian cà phê” cũng là một thứ
“đặc sản” của quê hương để tôi có thể giới thiệu với bạn bè, người quen đến từ
xứ khác mà không đến nỗi phải áy náy, băn khoăn.
Thật ra thì tôi cũng đã đặt chân qua nhiều
nơi trên các miền đất nước. Và đến nơi nào tôi cũng thường ghé qua một vài quán
đẹp để thưởng thức “không gian cà phê” của mỗi vùng. Nhưng tôi nhận ra rằng ở
những chốn nên thơ, mơ màng như Huế hay Đà Lạt thì “không gian cà phê” chìm hẳn
vào không gian thành phố, giống như một vài đóa hoa nở giữa cánh đồng hoa, còn
“không gian cà phê” ở Sài Gòn thì gần như là những bông hoa nở trên sa mạc, hay
những khóm lá xanh mọc giữa lởm chởm cao nguyên đá!
Dĩ nhiên là tôi mong Sài Gòn trở thành một
kiểu đô thị dễ chịu hơn. Nhưng tôi cũng rất mong Sài Gòn sẽ không làm mất đi
“không gian cà phê” trong lòng nó, dù thời cuộc có mang đến bao nhiêu thay đổi
trong đời sống đô thị và trong “văn hóa cà phê” ở nơi này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét