Thứ Bảy, 21 tháng 3, 2015

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA THƠ TƯỢNG TRƯNG TRONG TẬP THƠ MƯA NGUỒN CỦA BÙI GIÁNG




1.      Mưa nguồn trong thế giới nghệ thuật thơ Bùi Giáng
Mưa nguồn là tập thơ đầu tiên của Bùi Giáng, được xuất bản năm 1962, sau đó được tái bản nhiều lần, lần gần đây nhất là năm 2012, được ghi nhận là lần thứ bảy tác phẩm này được in tại Việt Nam. Sau Mưa nguồn, Bùi Giáng còn xuất bản rất nhiều tập thơ khác, trong đó có những tập ngay từ tựa đề đã thể hiện phong cách đặc trưng của thi sĩ độc đáo này, như Rong rêu, Mười hai con mắt, Thơ vô tận vui, Tuyết băng vô tận xứ, Rớt hột phiêu bồng v.v... Mưa nguồn như một cánh cửa mở ra một không gian thơ “vô tận”, vừa đầy ắp những hình ảnh, ngôn từ vừa thách thức, cợt đùa với độc giả bằng sự rỗng rang, phi logic đến từ một tâm hồn thi sĩ – triết gia đầy bí ẩn.
Các nhà phê bình thường nhận xét rằng Mưa nguồn là sự khởi đầu của thế giới thơ ca mang tên Bùi Giáng. Nói “khởi đầu” không chỉ vì đây là tập thơ được ra mắt độc giả sớm nhất trong kho tàng thơ ca mênh mông như suối nguồn bất tận của thi sĩ họ Bùi, mà còn vì đặc trưng phong cách ở tập thơ. Ngôn ngữ thơ trong Mưa nguồn nói chung còn thể hiện vẻ đẹp nhuần nhị, tứ thơ còn mang nhiều ánh sáng, nhiều sắc hương của cõi đời, của tình người và giọng điệu đùa cợt trong thơ còn nhẹ nhàng, dễ tiếp thu đối với mọi tầng lớp độc giả. Càng đi vào thế giới thơ Bùi Giáng thì những yếu tố bộc lộ sự “khác thường” của thi sĩ ở Mưa nguồn càng trở nên đậm nét, đậm đến mức tạo nên trong giới độc giả nhiều hiệu ứng cảm xúc khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Có những người vì say mê nghệ thuật thơ Bùi Giáng mà tôn kính gọi thi sĩ là bậc thượng trí, thiên tài. Lại có người vì không tiếp thu được những ngôn từ quá “lộ liễu”, đời thường trong thơ ông mà cảm thấy “dị ứng” với kiểu thơ như vậy. Và cũng có những người thưởng thức thơ Bùi Giáng với ít nhiều thích thú nhưng cảm thấy đó là một thế giới vô cùng bí hiểm, thậm chí là thế giới của người điên đã thoát khỏi những quy luật logic và cả quy luật cảm xúc của đời sống thông thường.
Thật ra thì những nội dung nhận xét như trên đều được thể hiện rõ ở con người và thơ ca Bùi Giáng. Điều đáng nói là mỗi khía cạnh như vậy cần được hiểu theo cách nào và trong hoàn cảnh nào. Và cũng phải công nhận rằng có những khía cạnh không dành cho việc hiểu, những nội dung chỉ nên được biết đến như một mảng “hiện thực bí ẩn” về thi sĩ và hồn thơ độc đáo ở ông.
Không có gì đáng phải tranh luận khi nhận xét Mưa nguồn là khởi đầu của thế giới thơ ca Bùi Giáng, nhưng sự “khởi đầu” này cần được làm rõ ở khía cạnh thẩm mỹ, ở phong cách nghệ thuật thơ chứ không nên chỉ dừng lại ở việc ghi nhận mốc thời gian của một di sản thơ ca đồ sộ. Trong khi đó, việc đi vào tìm hiểu nghệ thuật thơ Bùi Giáng là một điều hết sức khó khăn. Thế giới thơ Bùi Giáng như một khu vườn kỳ lạ mà mỗi độc giả bước chân vào đấy đều nhận ra cảm giác “thấy hết mà như không thấy gì”, bởi ngôn từ trong thơ vừa hiển lộ đến “nhức mắt” lại vừa như lẩn trốn sau một màn sương huyền ảo và bí mật, nửa tối nửa sáng, thoắt có thoắt không.
Trong cái thế giới thơ vừa dung tục lại vừa hiền minh, vừa ngổn ngang lại vừa sâu thẳm ấy, Mưa nguồn là tập thơ mang đến cho người đọc những cảm xúc tinh khôi nhất, đúng như những gì mà hình ảnh “mưa nguồn” có thể gợi lên. Đó là sự tinh khôi của một khoảng trời vừa hiện ra sau khung cửa. Không có nghĩa là người đọc dễ dàng thấu suốt về toàn bộ tập thơ. Nhưng với Mưa nguồn, người đọc cảm thấy mình vừa được dẫn dắt vào một con đường thơ đầy thú vị với rất nhiều ẩn ngữ. Và qua những bước đi đầu tiên trên con đường ấy, cảnh vật xung quanh hiện ra trước mắt mọi người như nụ cười huyền diệu của tự nhiên, vừa mộc mạc chân thành vừa thâm u bí hiểm, nhẹ nhàng đưa bước chân của người yêu thơ đến với cõi thơ “vô tận” của thi sĩ họ Bùi.
Dạo qua con đường thơ trong tập Mưa nguồn, có lẽ người đọc không ai không nhận ra sự hiện diện của những hình ảnh mang tính biểu tượng. Dĩ nhiên không phải chỉ riêng thơ Bùi Giáng hay tập Mưa nguồn mới có sự xuất hiện của những hình ảnh ấy, nhưng ở tập Mưa nguồn thì tần suất, mật độ và đặc trưng hình ảnh ở các biểu tượng để lại một ấn tượng đặc biệt trong cảm nhận của độc giả về ấn phẩm đầu tiên trong hành trình bí nhiệm của thơ ca Bùi Giáng. Sau Mưa nguồn, chẳng hạn như trong tập Rong rêu, thơ Bùi Giáng vẫn có sự xuất hiện của những hình ảnh lạ, khó hiểu và sự xuất hiện vẫn theo kiểu ngẫu nhiên, phi quy ước, nhưng ấn tượng chung về thơ của tác giả này dường như đã có sự dịch chuyển từ thế giới biểu tượng sang trò chơi ngôn ngữ.
Tính biểu tượng của hình ảnh trong tập Mưa nguồn biểu lộ rõ ngay từ tựa đề của tập thơ. Không chỉ trong môi trường học thuật của lý luận và phê bình chuyên nghiệp mà ngay cả trong những bài báo ngắn, những bài tùy bút, tản mạn chỉ đôi ba trang ghi lại ấn tượng hay hoài niệm của người viết đối về một nhà thơ, một con người kỳ dị tên là Bùi Giáng, người ta cũng có thể đọc được những dòng bình luận về ý nghĩa biểu tượng của từ “mưa nguồn” được tác giả chọn làm tựa đề cho tập thơ xuất bản đầu tiên.
Mặt khác, dù có hiểu đúng hay không ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh “mưa nguồn”, người đọc cũng phải đối diện với vấn đề khó khăn là gắn biểu tượng này với toàn bộ thế giới hình ảnh mà tập thơ trình hiện. Hiểu toàn bộ thế giới hình ảnh ấy như một hệ thống mạch lạc, tường minh dĩ nhiên là một điều không thể. Nhưng đi vào thế giới ấy để khám phá những yếu tố kết nối ngôn từ, hình ảnh trong thơ đang chìm khuất ở bề sâu thì quả là thú vị. Trong kho tàng thơ ca Bùi Giáng với rất nhiều bài thơ như thách đố, như cười cợt vào tư duy ngôn ngữ của người đọc thông thường, chỉ Mưa nguồn là có một thế giới biểu tượng với tính tập trung và sự khơi gợi vừa đủ mức để lôi cuốn người đọc đến dạo chơi, khám phá, tìm kiếm những mạch ngầm đã mở ra con đường thơ phong phú của thi nhân.
2.      Tính “hướng tâm” của một số biểu tượng trong Mưa nguồn
Trong bài viết về chủ nghĩa tượng trưng “Three Meanings of Symbolism”, Northrop Frye đã chỉ ra hai khuynh hướng biểu đạt của biểu tượng trong ngôn ngữ. Theo đó, khi một từ được sử dụng trong văn bản như một biểu tượng, thì từ đó sẽ có ý nghĩa biểu đạt khác nhau tùy theo hướng vận động biểu nghĩa của từ: “Trong vận động ly tâm, từ là một biểu tượng theo nghĩa của một ký hiệu, hay là sự thay thế cho một vật ở bên ngoài hình mẫu của từ. Trong vận động hướng tâm, từ là một biểu tượng theo nghĩa của một hình ảnh, hay là một đơn vị của một cấu trúc ngôn ngữ[1].
Sau đó, tác giả bài viết còn giải thích thêm:
Trong văn học thì cảm nhận về sự thật ít quan trọng hơn ý hướng tối thượng nhằm tạo ra một hình mẫu của từ vì chính bản thân nó. Giá trị ký hiệu của biểu tượng lệ thuộc vào tầm quan trọng của nó với tư cách là một cấu trúc hình ảnh. Nghĩa hướng tâm, hay hình mẫu ngôn ngữ độc lập, dường như là trường phản ứng gắn với cảm giác dễ chịu, cái đẹp và sự thích thú[2].
Nếu hiểu nội dung phân tích về biểu tượng như trên của Northrop Frye trong trường hợp của nghệ thuật thơ ca thì có thể thấy hướng biểu nghĩa “ly tâm” ứng với việc sử dụng các biểu tượng mang tính ước lệ trong thơ cổ điển. Đó là cách mà một biểu tượng tồn tại trong thơ có sứ mệnh “nói thay” cho một đối tượng khác không nằm trong nghĩa gốc của từ, mà tiêu biểu là các hình ảnh mượn từ thiên nhiên để miêu tả diện mạo hay tính cách con người như tuyết, hoa mai, cội tùng, ngọn trúc, vầng dương, đóa trà mi v.v...
Trong khi đó, cách sử dụng biểu tượng theo lối biểu nghĩa “hướng tâm” lại tương ứng với thi pháp của thơ tượng trưng thời hiện đại. Biểu tượng trong thơ tượng trưng thường đa dạng, tùy thuộc vào ý hướng cá nhân của nhà thơ nên không theo quy ước như biểu tượng ước lệ trong thơ cổ điển. Sở dĩ như vậy là vì việc sử dụng biểu tượng trong thơ tượng trưng không nhằm mỹ hóa ngôn từ bằng cách đưa vào thơ những hình ảnh đẹp mà là kết quả của “ý hướng tối thượng nhằm tạo ra một hình mẫu của từ vì chính bản thân nó”, như cách nói của Northrop Frye.
Tính hiện đại của thơ tượng trưng nằm ở chỗ các nhà thơ sử dụng nhiều biểu tượng – vốn là một dạng ngôn từ mang tính khuôn mẫu trong thơ cổ điển – nhưng lại giải phóng thơ ca khỏi mọi khuôn mẫu quy ước của nghệ thuật tu từ. Như vậy là nhà thơ đã đặt giá trị của ký hiệu ở vị trí thấp hơn cấu trúc hình ảnh của biểu tượng trong thơ. Điều đó đòi hỏi người đọc phải thoát ra khỏi cách tư duy theo định hướng quy chiếu một biểu tượng trong thơ vào một hình ảnh, một đối tượng tồn tại ở bên ngoài để hiểu được ý nghĩa của ngôn từ trong tác phẩm, ngược lại phải đi vào bên trong cấu trúc của ngôn từ để nắm bắt những điều mà biểu tượng có thể gợi lên.
Thế giới trong Mưa nguồn cũng đầy ắp biểu tượng, nhưng không phải loại biểu tượng ước lệ như trong thơ cổ điển mà là biểu tượng mang phong cách cá nhân, mang thông điệp riêng của nghệ thuật thơ Bùi Giáng. Cùng với ngôn ngữ “bất quy tắc”, mang đậm tinh thần phản duy lý vốn là một đặc trưng xuyên suốt trong thế giới Bùi Giáng bao gồm cả triết học lẫn thi ca, việc sử dụng các hình ảnh biểu tượng một cách tự do, nhẹ nhàng và gần như ngẫu hứng trong tập Mưa nguồn cũng là một thách thức đầy thú vị đối với người đọc chưa thoát được phản xạ của tư duy duy lý.
Ở nhiều bài thơ, hàng loạt hình ảnh cứ lần lượt hiện ra nối tiếp nhau mà dường như chỉ là sự xuất hiện ngẫu nhiên của trò chơi chữ nghĩa, hay ít nhất là ngẫu nhiên trong chừng mực độc giả chưa tìm được cái tâm điểm, cái nguồn mạch ẩn khuất đằng sau bề mặt ngôn từ đã kết nối các biểu tượng trong hồn thơ bất tuyệt của thi nhân. Chẳng hạn như đoạn thơ dưới đây trong bài thơ Không bờ:
Thiên thu lời tạ bên lời
Hữu vô hữu thể bên đời ngủ yên
Trang hồng hạnh gió đưa nghiêng
Tàn canh vẽ bóng sơn tuyền đã sai
Xuân xanh xô cổng chạy dài
Bỏ sương tuyết phủ phượng đài phía sau
Giã từ bến trước bờ sau
Cánh chuồn chuồn mỏng trúc lau hao gầy
Cỗi nguồn trường mộng thơ ngây
Trời kim nguyệt đã xưa đầy hai vai[3]
Những biểu tượng đi vào thơ một cách tự do, để cho lời thơ mặc tình tung tẩy theo tứ thơ phóng khoáng là đặc trưng đánh dấu một giai đoạn rất đẹp trong hành trình thi ca độc đáo của Bùi Giáng – giai đoạn “Mưa nguồn”. Ở giai đoạn này, thơ Bùi Giáng dường như đang ở mức cân bằng giữa chất “mỹ” và chất “triết”. Sang các tập thơ sau, chất “triết” đậm hơn hẳn làm cho thơ Bùi Giáng trở nên “bất khả giải” như những công án Thiền, và ngôn từ trong thơ đã trở thành “mật ngữ” của một tâm hồn thấu suốt lẽ huyền vi. Kiểu thơ ấy thật tuyệt vời nhưng cũng thật khó tìm được cơ hội để ngân nga, bay bổng trong tâm hồn đồng điệu, dù một thi nhân như Bùi Giáng chưa hẳn đã mong mỏi điều gì ở người đọc khi cất bút đề thơ.
Sự cân bằng giữa chất “mỹ” và chất “triết” ở Mưa nguồn gắn với tính hai mặt của ngôn ngữ biểu tượng là một đặc trưng nổi bật và xuyên suốt tác phẩm. Một mặt, các biểu tượng chỉ là hình ảnh đi vào thơ cứ như là rời rạc, ngẫu nhiên. Thậm chí nếu chỉ đọc một bài thơ, hay chỉ gặp hình ảnh ấy một lần, thì khó mà có thể nghĩ rằng hình ảnh ấy được sử dụng như một biểu tượng. Mặt khác, nếu đọc tất cả các bài thơ trong tập Mưa nguồn như thể toàn tập chỉ là một bài thơ với nhiều tiết đoạn, nhiều biến tấu, như đề xuất trong một số bài viết phê bình về Mưa nguồn nói riêng và thơ Bùi Giáng nói chung[4], người đọc có thể nhận ra không những vai trò của một số biểu tượng mà cả cấu trúc hình ảnh đã kết nối các biểu tượng ở tầng sâu ngôn ngữ.
Điều dễ nhận thấy nhất trong tập Mưa nguồn là sự lặp từ, lặp hình ảnh với tần suất khá cao. Hiện tượng này không phải là do tác giả nghèo vốn từ hay lúng túng trong cách diễn đạt mà ngược lại, mỗi lần lặp từ, lặp hình ảnh thì người đọc lại có thêm một trải nghiệm mới, một ấn tượng mới về thế giới phong phú luôn chuyển xoay, biến hóa trong trò chơi ngôn ngữ của thi nhân. Ví dụ, vẫn là “rừng” nhưng trong mỗi câu thơ, mỗi bài thơ, tác giả lại tạo ra những hình ảnh, những nhịp điệu và sự kết nối liên tưởng với những hình ảnh trước và sau đó theo nhiều kiểu khác nhau: khi thì “cuối phương ngàn rừng núi mộng trong sương”, khi thì “rừng đêm xanh trăng tạ không lời”, khi thì “mù sa thấp rừng nai xưa lỡ hẹn”, khi thì “xuống thiên thu sầu hận khóc hang rừng”, rồi lại có “hang rừng gió thổi giòng khe”, “nước truông là lá thu rừng xuống khe” v.v...
Nhờ ngôn ngữ giàu hình ảnh biểu tượng kết hợp với cách dùng từ vừa trùng lặp vừa xáo trộn linh hoạt qua các bài thơ, Mưa nguồn trở thành một khu rừng vừa rậm rạp hoang vu vừa hứa hẹn cuộc khám phá thú vị qua những con đường quanh co thấp thoáng. Trong số đó, những “con đường” dễ nhận ra nhất là chuỗi kết nối các hình ảnh xuất hiện với tần suất cao nhất trong toàn bộ tập thơ.
Điều thú vị là những từ mang tính biểu tượng xuất hiện qua nhiều bài thơ với tần suất thuộc loại cao nhất lại mang đến những hình ảnh gần gũi với hình ảnh được dùng làm tựa đề, nêu lên tứ thơ bao quát cho toàn tập – “mưa nguồn”. Trong Mưa nguồn đầy ắp những hình ảnh về “nguồn” và những hình ảnh có liên quan đến nước. “Nguồn” được hiểu theo nghĩa bao quát nhất là sự khởi phát, cõi ban sơ. Tác giả dùng một phổ từ phong phú, miêu tả một hình ảnh cụ thể (“mùa xuân”, “nguyên khê”, “đầu rú”, “đầu non” v.v...) đến diễn đạt một trạng thái trừu tượng (“sơ nguyên”, “nguyên sơ”, “hồn nguyên tiêu”, “thời ngan ngát” v.v...) để nói đến “nguồn”, đến khởi điểm xa xưa và xa xăm. Còn hình ảnh trong các từ có liên quan đến nước thì đa dạng, như “mưa”, “sông”, “suối”, “biển”, “khe”, “giòng” “sóng”, “lụt”, “trôi”, “tuôn”, “chảy”, “đổ” v.v... Bên cạnh đó, còn có nhiều từ khác được lặp lại khá nhiều lần và cũng gắn với những hình ảnh mang tính biểu trưng như “con đường”, “rừng”, “đồng nội”, “ngàn”, “truông”, “mây”, “sương”, “mộng” v.v... Những từ này tuy không được đặt trong mối quan hệ trực tiếp nhưng cũng gợi lên những liên tưởng gắn với “nước” và “nguồn”.
Cho nên, “mưa nguồn” không phải chỉ là một mà là một thế giới các biểu tượng. Thế giới ấy có khi thấp thoáng hiện lên những khả năng kết nối sự liên tưởng sâu xa, như những con đường mòn thấp thoáng giữa những tán cây rừng, nhưng điều đó mới chỉ thể hiện sự mời gọi mà không hứa hẹn một điểm đến nào cụ thể và chắc chắn. Điều mà người đọc có thể khẳng định là dấu hiệu của những nguồn mạch tâm thức ở bên dưới bề mặt ngôn từ, như những mạch nước ngầm do cơn mưa đổ xuống tận đầu nguồn âm thầm len lỏi trong lòng đất mà nuôi dưỡng cả một vùng cây lá xanh tươi.
Từ những biểu hiện ấy, nếu theo cách phân tích của Northrop Frye như đã dẫn ở phần trên thì có thể nói rằng ngôn ngữ biểu tượng trong Mưa nguồn là biểu tượng có sự vận động biểu nghĩa “hướng tâm”, tức biểu tượng đóng vai trò như một hình ảnh, một đơn vị của cấu trúc ngôn ngữ. Rõ ràng là rất nhiều hình ảnh trong Mưa nguồn vốn dĩ không phải là một biểu tượng mang tính ước lệ trong truyền thống văn học và văn hóa. Chúng chỉ trở thành biểu tượng khi được tác giả đưa vào trong một bài thơ, một câu thơ, đặt trong mối liên hệ ở chiều sâu ngôn ngữ với các câu thơ, ý thơ, bài thơ khác trong toàn tập. Sở dĩ như vậy là do những từ mang tính biểu trưng trong Mưa nguồn không tồn tại như một đơn vị biểu nghĩa độc lập mà tồn tại như một đơn vị của cấu trúc ngôn ngữ - hình ảnh. Cấu trúc ấy không phải là một cái khung cứng nhắc nằm cố định bên trong một bài thơ, một câu thơ mà chỉ được hình thành một cách linh hoạt khi người đọc bước vào thế giới thơ để tự mình có được những mối liên hệ sâu xa trong tâm tưởng.
3.      Cấu trúc và vận động của thế giới biểu tượng trong Mưa nguồn
Chính các biểu tượng đóng vai trò như một đơn vị của cấu trúc ngôn ngữ mà nhiều nhà phê bình khi viết về thơ Bùi Giáng nói chung và tập Mưa nguồn nói riêng đã có cùng nhận xét, rằng khó có thể nói gì về một câu thơ, một bài thơ nào đó của Bùi Giáng mà chỉ có thể cảm nhận về cái hồn, cái thần, cái chất riêng toát lên từ toàn bộ thế giới thơ ca của thi sĩ đặc biệt này. Và nếu xem toàn bộ kho tàng thơ ca của Bùi Giáng chỉ là một bài thơ duy nhất thì Mưa nguồn trở thành một đoạn thơ mở đầu rất đẹp và ý vị. Nhìn kỹ hơn một chút, độc giả sẽ thấy rằng vẻ đẹp và sự ý vị kia, cũng là yếu tố đã tạo nên trạng thái cân bằng giữa chất “mỹ” và chất “triết” trong tập thơ này, xuất phát từ sự tồn tại của thế giới những hình ảnh tượng trưng mà các nhà phê bình thường gọi là “biểu tượng – cổ mẫu”. Đó là những hình ảnh thân quen, bình dị, bắt rễ rất sâu trong tâm thức của một cộng đồng và trở nên biến hóa ảo diệu trong trò chơi ngôn ngữ dưới ngòi bút của một thi sĩ tài hoa.
Như ở phần trên đã trình bày, các biểu tượng nổi bật trong Mưa nguồn với tần suất xuất hiện nhiều nhất đều là những hình ảnh gắn với nguồn và nước. Điều đó cho thấy hình ảnh “mưa nguồn” được tác giả chọn làm tựa đề cho cả tập thơ cũng trở thành biểu tượng gốc, hay biểu tượng trung tâm cho sự hội tụ của các hình ảnh biểu trưng trong toàn tập. Sự tồn tại của biểu tượng trung tâm đã tạo nên sức hút hướng tâm tác động lên nhiều hình ảnh, từ ngữ khác. Đó cũng là những dấu hiệu nổi trội nhất giúp người đọc nhận ra sự tồn tại của cấu trúc hình ảnh – ngôn ngữ mà mỗi biểu tượng với tư cách là một đơn vị trong cấu trúc có vai trò khơi gợi ở người đọc những liên tưởng sâu kín hay những trải nghiệm thẩm mỹ chỉ có thể đến từ trực cảm.
Vì “mưa nguồn” là biểu tượng gốc nên thế giới biểu tượng trong tập thơ tràn ngập những hình ảnh về nước và những hình ảnh, những từ gợi lên cảm giác ban sơ của sự khởi đầu. Đặc biệt, những từ nói đến dòng chảy của nước và cảm giác trôi chảy mênh mông được sử dụng nhiều lần nhưng xuất hiện trong rất nhiều biến tấu, từ những cách dùng từ quen thuộc như “chảy”, “đổ”, “xuôi giòng”, “trôi” v.v... đến những tổ hợp ngôn từ - hình ảnh độc đáo như “trời đổ lộn nguyên khê”, “giọng người đổ xuống bến xanh”, “sóng phơi trường mộng”, “nước lang thang”, “đêm cuồng mưa khóc điên”, “mưa vội vã như bình minh thúc giục” v.v... Tương tự, từ “xuân” xuất hiện rất nhiều lần trong nhiều bài thơ nhưng không phải chỉ để nói lên khái niệm mùa xuân hay miêu tả một khung cảnh cụ thể, mà là một đơn vị hình ảnh – ngôn ngữ được lắp ghép với nhiều đơn vị khác theo những cách khác nhau, khơi gợi sự hình dung rộng mở về khoảnh khắc đầu tiên, về “cái thuở ban đầu” trong trẻo và tươi đẹp: “nguyên xuân”, “bờ xuân”, “xuân đầu”, “sớm xuân”, “xuân xanh”, “màu xuân”, “ngàn xuân”, “giòng xuân”, “ruộng xuân”, “bến xuân” v.v...
Do sự hiện diện của các hình ảnh, các từ và tổ hợp từ nêu trên vừa lặp lại nhiều lần vừa liên tục đổi mới mà xuyên suốt thế giới biểu tượng trong cả tập thơ, người đọc dễ nhận ra hình ảnh của nước và cảm giác về sự khởi đầu, về cõi ban sơ như xoắn quyện vào nhau quanh hình ảnh mưa nguồn được đặt ở vị trí trung tâm của một biểu tượng gốc. Mở rộng ra thêm nữa, có thể thấy cả quá trình vận động khi nước chảy xa nguồn. Dòng nước của ngọn nguồn tinh khôi, thanh khiết vỡ òa ra trong thế giới mênh mông. Rồi nước lại xuất hiện trong vô vàn hình thể như “giòng xưa sông sóng giậy”, “bến nước”, “sóng cuộn thác nguồn”, “tràn lan nước gội”, “bóng nước mơ màng”, “sóng giạt buồm trôi”, “suối đá gập ghềnh” v.v...
Khi vị trí của trung tâm bị “giải thể”, hình ảnh trung tâm bị phân mảnh tạo ra một thế giới mênh mông, bề bộn mà lại hoang vắng, đầy khoảng cách thì cảm thức thẩm mỹ trong Mưa nguồn bàng bạc nỗi buồn của sự quạnh hiu, lưu lạc, chia xa. Cảm thức này được thể hiện qua một tập hợp đa dạng các biểu tượng khơi gợi lên nhiều hướng, nhiều tuyến cảm xúc và liên tưởng, như những đường gân tạo thành bộ khung cho chiếc lá.
Thứ nhất là tập hợp các từ, các hình ảnh biểu tượng gợi cảm giác của sự chia xa, cách trở. Trung tâm của tập hợp này là biểu tượng “bờ”, cũng là một từ được tác giả sử dụng với nhiều biến thể khác nhau: “bờ nước”, “bờ xuân”, “bờ trần gian”, “bờ mây”, “bờ đổ vỡ”, “bờ dương”, “bờ cỏ”, “bờ trùng ngộ” v.v... Bờ vừa là nơi hai thế giới tiếp giáp nhau vừa là ranh giới tạo nên cách biệt. Trong Mưa nguồn, “bờ” nhiều khi gắn liền với “bến”, với cảm giác của gặp gỡ, tìm về. Nhưng thường thì “bờ” gợi lên cảm giác của sự phân đôi, chia cách, của cảm giác nuối tiếc, hụt hẫng, xót xa.
Bên cạnh đó là sự tập hợp các hình ảnh biểu trưng tạo nên sự hình dung về một trạng thái phiêu linh, trôi giạt. Trạng thái này rất đậm nét trong Mưa nguồn do sự lặp lại nhiều lần hình ảnh dòng sông với nước chảy sóng xô, kết hợp với hình ảnh con đường cùng bóng người lang thang vô định. Bùi Giáng đã sử dụng một vốn từ phong phú để những hình ảnh tưởng chừng như rời rạc, ngẫu nhiên trong mỗi bài thơ, mỗi câu thơ tìm đến với nhau trong một sự kết nối ở chiều sâu tâm tưởng. Đó là những “giòng trôi”, “nước chảy”, sóng lạc”, “nước sương buông”, “nước lang thang chảy xa miền” bên cạnh những “sầu sa mạc”, “vườn cỏ lạnh hoa buồn”, “cỏ hoa hồn du mục”, “con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại”, “lạc về đầu rú khe truông”, “hờn phố thị để lạc hồn cõi lạ”, “bóng du ải Bắc phiêu bồng”, “ngậm ngùi gió nội lang thang”, “nửa đời trôi giạt”, “miền cát lạnh chân lạc đà bé bỏng”, “xin chào nhau giữa con đường”, “cồn sương đi vào truông lạnh miên man”, “ta đi tìm bóng mơ hồ”, “về thung lũng ngó cành hoang” v.v...
Ấn tượng về sự phiêu linh, trôi giạt trong những ý thơ trên lại dò được mạch ngầm trong ngôn ngữ biểu trưng để nối kết với hàng loạt những hình ảnh gợi cảm giác về sự mất mát, đổ vỡ cũng như sự hoài vọng, kiếm tìm. Những cảm giác này được khơi gợi từ một thế giới biểu tượng vô cùng phong phú và cách xử lý ngôn từ độc đáo của nhà thơ.
Hình ảnh con nai hay con hươu với cái nhìn “ngơ ngác” giữa thiên nhiên hoang dã và từ “ngó” được dùng thay cho “nhìn” tuy không có sự kết nối trực tiếp trên bề mặt ngôn ngữ nhưng lại là sự tương hợp tuyệt vời để gợi lên cảm giác của sự ngơ ngẩn, lạc loài giữa thế giới hoang vu, xa lạ trong hành trình bất tận, mênh mông. Cái nhìn ngơ ngác ấy cũng có khi là cái nhìn tìm kiếm của một tâm hồn lang thang luôn nhung nhớ nguồn cội thuở ban đầu, nhớ về “bờ nước cũ” của thuở nào tươi đẹp:
Ta sẽ đến đứng bên bờ nước cũ
Ngó bên kia vườn lá biếc hoa lừng
Ô vạn vật vẫn chờ nguồn nước lũ
Tự ngàn năm tuôn dạo tự khe rừng
Ta sẽ đến đứng bên bờ nước cũ
Mộng xanh ngần giậy nối mộng em xưa
Ngó non nước giữa sớm chiều tư lự
Đón mơ màng về thổi gió lưa thưa[5]
Trong một bài thơ khác, cái “ngu ngơ” lại là sự lạc điệu trong một thế giới rộng lớn nhưng mọi thứ dường như rất xa nhau, không tìm được sự hòa nhập, sự tương thông và cuối cùng thì cảm giác lạc loài, cô độc bao trùm lên tất cả:
Mây đứng lại chân trời phủ khói
Giòng sông đi đò bến đợi ngu ngơ
Chiều trời đẹp tâm tình em không nói
Đất với trời chung một nghĩa bơ vơ[6]
Trong cảm giác mênh mông xa vắng giăng phủ qua nhiều bài thơ trong toàn tập, thỉnh thoảng có những cụm từ, những hình ảnh như một nỗi đau, một vết bầm hằn trên nhánh cỏ nụ hoa của bước chân du mục:
Cánh chim ngã gục xuống đàng
Nước non từ tạ trăng ngàn viễn du[7]
Rồi từ đó về sau mang trái đắng
Bàng hoàng đi theo gió thổi thu bay[8]
Và vuốt ngực nghe chừng như lá phổi
Đã điêu tàn trong lệ đẫm liên miên
Dòng ngơ ngác tự bao giờ đã lỗi
Trong chờ mong tiếng vọng ở xa miền[9]
Cười nức nở nghe đời toan ngã gục
Ngày xuân xanh sơ ngộ để thiên thâu
Còn ngơ ngác hương mùa lên mấy lúc
Ngạt linh hồn em lịm giữa chiêm bao[10]
Và cũng không ít lần nỗi đau hiện hình thành một sự mất mát, gãy dổ trong những hình ảnh vừa gần gũi thân thương vừa hoang liêu, huyễn hoặc:
Em chết bên bờ lúa
Em chết dưới triều xanh
Giòng sông kia ấy của
Mộng ước vỡ tan tành[11]
Mảnh băng tuyết khóc rẫy ruồng
Mộng hoang phế rụng bên nguồn nước xanh
Chiêm bao tàn tạ trăng cành
Ngàn xưa gục ngã bên thành lũy xiêu[12]
Nhưng day dứt, ám ảnh nhất là cảm giác về sự lạc loài, đổ vỡ của một “hiện thể” bị tách khỏi cội nguồn, bị xô đẩy vào cuộc đời mênh mông bất tận trong trạng thái dở dang, hoài nhớ mà vĩnh viễn không tìm được với cái hồn trong xanh nguyên khởi buổi ban sơ:
Lá cũng mất như một lần đã lỡ
Trời đã xanh như tuổi ngọc đã xanh
Trời còn đó giữa tháng ngày lỡ dở
Hồn nguyên tiêu ai kiếm lại cho mình[13]
Như vậy là trong thế giới hình ảnh tượng trưng của Mưa nguồn, dòng cảm xúc vận động trong mạng lưới các biểu tượng theo cả hai khuynh hướng hội tụ và lan tỏa. Cảm xúc khởi đi từ ấn tượng về hình ảnh trung tâm là mùa xuân tươi mới, là dòng nước trong xanh tinh khiết ở đầu nguồn. Trải qua sự chia cách, phân ly trong thời gian vô định và không gian bất tận, cảm xúc ấy đã biến tấu ở nhiều cung bậc, gắn với những hình ảnh của một sự tồn tại trong tình trạng xô giạt, điêu linh, đổ vỡ, thương đau, mất mát, lạc loài... Nhưng thẳm sâu bên trong một tâm hồn trải qua nhiều lưu lạc, đắng cay, mất mát, thẳm sâu trong cái nhìn ngác ngơ phảng phất một nỗi buồn diệu vợi luôn thao thức một cõi lòng hoài niệm về “bờ cũ”, “giòng xưa” như một thứ cội nguồn đã mất đi trong bão táp cuộc đời mà chẳng bao giờ ngưng ám ảnh trong một hồn thơ chừng như rỗng rang nhưng lại nhiều ẩn ức.
4.      Thế giới biểu tượng trong Mưa nguồn và sự bất định của yếu tố chủ thể
Sự vận động của dòng cảm xúc theo hai hướng hội tụ và lan tỏa đã tạo nên cảm giác xê dịch, nổi trôi trong toàn bộ không gian của Mưa nguồn. Và cũng chính cảm giác về một sự lưu động không ngừng trong không gian mông lung, xáo trộn này đã làm cho ấn tượng về chủ thể trữ tình bị nhòe đi, mờ đi, trở nên huyền hoặc và bất định.
Nói Mưa nguồn không có sự tồn tại của chủ thể trữ tình thì không chính xác, vì nhiều bài thơ, nhiều câu thơ vẫn có sự tồn tại của cái tôi chủ thể qua đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất (“anh”, “tôi” “ta”), trong đó không ít bài có giọng văn hội thoại giữa ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai (“anh – em”, “ta – em”, “tôi – em”, “tôi – mình”). Tuy nhiên, sự tồn tại của chủ thể trữ tình không có nghĩa là bài thơ đang nói về vấn đề của một cá nhân.
Điều đó trước hết vì chủ thể trữ tình tuy thường xuyên hiện diện qua các đại từ nhân xưng nhưng không phải là một chủ thể cá nhân và cố định. “Anh”, “tôi” hay “ta” trong các bài thơ đều không nhất thiết là bản thân tác giả. Tương tự, “em” có thể thay đổi từ một cô thôn nữ mà “anh” đã từng gặp đâu đó trên con đường phiêu bạt đến một nhân vật trong tiểu thuyết, thậm chí có trường hợp còn là... những con dê của chàng Tô Vũ! Trong thế giới của rất nhiều “anh – em”, “chàng – nàng” đó, người đọc có thể nghe thấy giọng điệu của cả con người và tự nhiên đang trò chuyện với nhau. Người phố thị, người Nam Việt, người Trung Việt, người Lục Tỉnh, người phương Tây, người hải nội, người hải ngoại đều có thể “tương tác”, hội thoại cùng nhau và thậm chí còn có thể tâm tình với bò, dê, cỏ cây, sông nước v.v... Cho nên, sự xuất hiện của các đại từ nhân xưng trong thế giới ngôn ngữ của Mưa nguồn thiên về tác dụng tạo giọng điệu hội thoại cho các bài thơ hơn là thông báo sự tồn tại của cái tôi chủ thể.
Bên cạnh đó, ngôn ngữ của Mưa nguồn tuy có rất nhiều từ diễn tả nhiều trạng thái cảm xúc khác nhau nhưng không có bài thơ nào được viết theo lối miêu tả cảm xúc cá nhân một cách mạch lạc và cụ thể như trong thơ lãng mạn. Tác giả có thể dùng nhiều từ của văn học cổ điển và những hình ảnh rất đời thường để nói đến trạng thái cảm xúc đang ở mức cao trào, bộc phát như “bưng mặt khóc òa”, “chết lịm hồn”, “ứa lệ ngàn ngàn”, “sầu đau khôn tả”, “lệ tràn như mưa”, “khóc không lời”, giòng nức nở”, “lệ ứa pha hồng” v.v... Nhưng với nghệ thuật dùng ngôn ngữ phi logic và hình ảnh ngẫu hứng như trong một trò chơi, những bài thơ trong Mưa nguồn dù có miêu tả cảm xúc ở cung bậc nào và qua hình ảnh nào cũng không thể bị nhầm lẫn với biểu hiện tình cảm trong thơ lãng mạn. Sự xáo trộn hình ảnh, ngôn từ qua từng câu thơ đã làm cho việc xác định chủ thể trữ tình như là một cái tôi cá nhân trở thành bất khả. Bài thơ tuy vẫn có chủ thể trữ tình nhưng lại như không có, vì chủ thể trữ tình có thể là bất cứ ai khi thế giới trong thơ mang chiều kích của cả một vũ trụ, và cũng có khi thế giới ấy chỉ là hư huyễn, là cảnh trí trong mộng, là vũ trụ của chiêm bao.
“Mơ”, “mộng”, “chiêm bao” cũng là những từ được lặp đi lặp lại rất nhiều lần trong suốt tập Mưa nguồn, thậm chí có trường hợp lặp lại nhiều lần trong cùng một bài thơ. Không gian của chiêm bao cũng xuất hiện ngay từ lời đề tặng rất độc đáo ghi ở đầu tập sách “Tặng ba người con gái chiêm bao ở bờ cỏ Phi châu”. Lối biểu đạt như thế dễ tạo cho người đọc cảm giác rằng Mưa nguồn mở ra một không gian của mộng ảo, hay đúng hơn là không gian mà mộng mơ và thực tại xen lẫn vào nhau. Trong không gian ấy, cả người viết lẫn người đọc đều không phân biệt được đâu là hiện thực và đâu là huyễn ảo.
Với một không gian thơ như vậy, tư duy duy lý và quy luật logic của ngôn ngữ đã bị đặt ra bên ngoài ngay từ khi độc giả bước qua lời đề từ như một cánh cửa dẫn vào thế giới vừa thân quen mộc mạc vừa huyền ảo và đậm chất phiêu linh:
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
Nhưng một khi đã ở giữa thế giới xen lẫn giữa đời và mộng, giữa hư và thực, giữa con người với tự nhiên thì mọi liên tưởng, mọi kết nối mang tính trực cảm vượt qua sự biểu nghĩa trên bề mặt ngôn từ đều trở nên khả thể. Trong thế giới ấy, chủ thể trữ tình dù xuất hiện qua các đại từ nhân xưng và lời thơ mang giọng điệu của đối thoại đời thường nhưng hình ảnh và ngôn từ trong thơ đã vượt qua cấp độ cá nhân để chạm đến biểu hiện của những mối giao hòa ở chiều kích của vũ trụ và nhân gian rộng lớn. Cho nên, những trạng thái xúc cảm dù đôi lúc như òa vỡ trong thơ cũng không phải là cảm xúc cá nhân biểu hiện qua cái tôi trữ tình cụ thể. Cảm thức trôi giạt, lỡ làng, đổ vỡ và mất mát trong Mưa nguồn không chỉ là dấu vết tâm hồn của một ai đó ở trong cõi nhân gian mà còn là biến động của cả vũ trụ, cả thế giới, vì vậy mới có “đời xiêu đổ”, “nguồn thao thức tự bao giờ gãy đổ”, “đời toan ngã gục”, “đáy linh hồn em rạn vỡ bao phen”, “rừng nai xưa lỡ hẹn”, “sầu hận khóc hang rừng”, “tóc rơi cuồng biển gió lìa trùng mây” v.v... Và chiều kích vũ trụ trong không gian Mưa nguồn, hay là sự hòa lẫn cái tôi cá nhân của chủ thể trữ tình vào cấu trúc và vận động của toàn thế giới, cũng là một dấu hiệu quan trọng của nghệ thuật thơ tượng trưng được thể hiện rõ nét ở tập thơ này.
Lời kết
Bùi Giáng không phải là một nhà thơ của chủ nghĩa tượng trưng. Nhưng với tập Mưa nguồn, nghệ thuật sử dụng các hình ảnh biểu trưng được đã tác giả phối hợp tuyệt vời với trò chơi ngôn ngữ, vốn là một sở trường của nhà thơ nhiều chất triết gia này. Mưa nguồn là cả một thế giới mang tầm vóc vũ trụ, trong đó hình ảnh con người và tự nhiên hòa lẫn vào nhau và vận động, xoay chuyển cùng nhau. Sự thanh tân trong trẻo của “mưa nguồn”, của “nguyên xuân” thẩm thấu vào nụ cười của “em”, hoài niệm của “anh”, vào cái vẻ thong dong của những chú bò ăn cỏ giữa rừng sim và đôi mắt nai rừng ngơ ngác. Mưa nguồn là thế giới mở ra từ biểu tượng về dòng nước khởi nguyên, trải rộng thành một thế giới từ hoang dã nguyên sơ với những “truông”, “ngàn”, “khe”, “rú” đến những miền đất mang những cái tên vừa quen vừa lạ: “Trung Việt”, “Nam Việt”, “Lục tỉnh”, “phương Tây”. Một thế giới mà con người là “hiện thể” hơn là chủ thể. Trong thế giới ấy, mỗi hình ảnh, mỗi từ của bài thơ như những con xúc xắc của trò chơi ngôn ngữ được gieo xuống tình cờ nhưng có sức thu hút lạ lùng để vẫy gọi người thưởng thức thơ đi vào những cung đường bất tận. Mỗi bước đi vào thế giới của Mưa nguồn đều đầy ắp những hình ảnh giàu sức gợi, những cảm xúc có khi thì ồn ào mãnh liệt nhưng có lúc lại mơ hồ tan nhanh như sương khói. Và điều tuyệt vời nhất mà độc giả nhận ra là dù có đi qua bao nhiêu đổ vỡ, phôi pha, xô giạt thì mọi ngả đường trong thế giới mênh mông vô tận vẫn thấp thoáng những bóng hình gợi nhớ về dòng nước “mưa nguồn” từ một cõi xa xăm. “Mưa nguồn” là khởi thủy mà cũng là điểm hội tụ, cho nên tập thơ tuy nhỏ bé mà tạo nên ở chiều sâu liên tưởng một thế giới ảo diệu và vận động không ngừng.
Tài liệu tham khảo
1.      Bùi Giáng, Mưa nguồn, NXB. Văn hóa – Văn nghệ, 2012.
2.      Đỗ Lai Thúy, Thơ như là mỹ học của cái khác, NXB. Hội nhà văn, 2012.
3.      Đỗ Lai Thúy, Mắt thơ, NXB. Hội nhà văn, 2012.
4.      Northrop Frye , “Three Meanings of Symbolism”, Yale French Studies, No. 9, Symbol and Symbolism (1952), pp. 11 – 19, http://www.jstor.org/stable/2929052.
5.      Oreste F. Pucciani, “The Universal Language of Symbolism”, Yale French Studies, No. 9, Symbol and Symbolism (1952), pp. 2735, http://www.jstor.org/stable/2929054.
6.      Paul De Man, “The Double Aspect of Symbolism”, Yale French Studies, No. 74, Phantom Proxies: Symbolism and the Rhetoric of History (1988), pp. 3 – 16, http://www.jstor.org/stable/2930287.
7.      René Wellek, “The Term and Concept of Symbolism in Literary History”, New Literary History, Vol. 1, No. 2, A Symbosium on Periods (Winter, 1970), pp. 249-270, http://www.jstor.org/stable/468631.
Robert G. Cohn, “Symbolism”, The Journal of Aesthetics and Art Criticism, Vol. 33, No. 2 (Winter, 1974), pp. 181-192, http://www.jstor.org/stable/429086.


[1] Northrop Frye , “Three Meanings of Symbolism”, Yale French Studies, No. 9, Symbol and Symbolism (1952), pp. 11 – 19, http://www.jstor.org/stable/2929052
[2] Northrop Frye , tlđd.
[3] Bùi Giáng, Mưa nguồn, NXB. Văn hóa – Văn nghệ, 2012, tr. 64 – 65.
[4] Xem Đỗ Lai Thúy, Thơ như là mỹ học của cái khác, NXB. Hội nhà văn, 2012; Đặng Tiến, “Bùi Giáng – thi sĩ kỳ dị”, Thanh Niên Online, tháng 10/2013.
[5]Bùi Giáng, sđd, tr. 63.
[6]Bùi Giáng, sđd, tr. 25.
[7] Bùi Giáng, sđd, tr. 24.
[8] Bùi Giáng, sđd, tr. 26.
[9] Bùi Giáng, sđd, tr. 69.
[10] Bùi Giáng, sđd, tr. 72.
[11] Bùi Giáng, sđd, tr. 118.
[12] Bùi Giáng, sđd, tr. 144.
[13] Bùi Giáng, sđd, tr. 120.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét