Khái niệm “Nhật Bản
tam cảnh” đến với tôi một cách rất tình cờ. Sau một lần đặt xe buýt đường dài của
hãng xe Orion, tôi nhận được thông tin quảng cáo của hãng này qua thư điện tử.
Hôm ấy tìm xong tài liệu ở thư viện thì còn vài chục phút nữa mới đến giờ hẹn gặp
giáo sư. Thấy khu vực để máy tính dành cho bạn đọc đang có nhiều khoảng trống,
tôi chợt nhớ mình cần lục lại email để tìm số điện thoại một người bạn nên sẵn
tiện đến ngồi một chút để tra cứu linh tinh.
Vì không dùng máy để
soạn thảo văn bản, và trong khi dùng máy cũng chẳng lưu trữ được thông tin để sử
dụng cá nhân nên tôi không vội vã hay mải mê lang thang trên nhiều website như
thường lệ. Đang lúc rỗi rãi, tôi bèn mở email quảng cáo ra xem. Nhìn thấy tuyến
Tokyo – Sendai với cước phí thấp hơn nhiều so với sự hình dung của tôi về một
chuyến đi lên vùng Đông Bắc, tôi thầm nghĩ “Hay
mình tranh thủ mấy ngày lên chơi ở Sendai”. Trước đó, tôi chỉ biết loáng
thoáng rằng Sendai là một thành phố lớn của vùng Tohoku, là một trong những nơi
bị thiệt hại khá nhiều trong thảm họa động đất, sóng thần năm 2011. Nhưng để có
một chuyến tham quan hữu ích thì cần tra cứu thêm một chút thông tin.
Mở ngẫu nhiên một
trang cung cấp thông tin về du lịch, tôi ngớ ra khi nhìn thấy địa danh
Matsushima – một cái tên rất quen và rất được đề cao trong văn học cổ điển Nhật
Bản. Thì ra Matsushima là thắng cảnh nổi bật nhất ở nơi này. Tôi có cảm giác gần
như tự hổ thẹn vì mình nhất thời không nhớ ra điều đó.
Đọc thông tin chi
tiết hơn một chút, tôi được biết Matsushima là một nơi trong “Nhật Bản tam cảnh”,
và không thể nào bỏ qua khái niệm mới gặp này. Tôi lại “lang thang” theo những
đường dẫn mở ra rất dễ dàng trên màn hình máy tính, để được biết hai địa danh
còn lại là Amanohashidate ở ngoại vi thành phố Kyoto và đảo Miyajima thuộc tỉnh
Hiroshima. Mừng vì hai “cảnh” ấy thuộc về những trọng điểm trong “bản đồ du lịch”
mà tôi đã phác họa cho những ngày sắp tới, tôi lại càng thích thú vì cái thư quảng
cáo kia đã tạo điều kiện cho mình phát hiện “cảnh” thứ ba trong lúc còn khả
năng thu xếp thời gian.
Thật ra thì tôi
không quá lệ thuộc vào những danh hiệu hay danh mục đề cử, bầu chọn nào đó, đặc
biệt là khi tìm đến với những giá trị phù hợp với tính cách của mình. Nhưng tôi
biết mình có quá ít thời gian ở nơi này và không nhiều lắm thông tin về mọi mặt,
nên cố gắng tận dụng tất cả những nguồn tin có giá trị tham khảo như một kẻ dẫn
đường, rồi sau đó mới đi vào quá trình tìm hiểu và cân nhắc, trước khi quyết định
và lên kế hoạch chi tiết để “tiêu xài” tiền bạc, thời gian. Với cách ấy, thông
tin về “Nhật Bản tam cảnh” hay “Nhật Bản tam danh viên” đều đến với tôi một
cách tình cờ và được tôi lựa chọn sau quá trình tra cứu (trừ Kenrokuen là nơi
đã được cơ quan giao lưu văn hóa Nhật Bản lựa chọn và giới thiệu, trước khi tôi
được biết đó là một “danh viên”).
Những thông tin đọc
được trên internet cho tôi biết danh mục của “Nhật Bản tam cảnh” đã có sự thay
đổi theo thời đại, và danh mục gần đây đề xuất nhiều “tân cảnh” rất đáng để
tham quan. Dĩ nhiên mỗi cảnh đẹp thiên nhiên đối với tôi đều là một chân trời vẫy
gọi, nhưng dù cho danh mục có thay đổi thế nào thì “sức nặng” của cái tên
Matsushima đối với tôi vẫn không hề suy suyển. Tôi muốn được tận mắt nhìn cảnh
vịnh biển có nhiều thông nơi ấy, để “thấm” được cảm giác làm cho Basho phải thốt
lên trong một bài haiku độc đáo như một công án Thiền. Thế là tôi hăm hở lên đường
trong một đêm vừa bước sang tháng chín, khi Tokyo vẫn oi ả bứt rứt trong những
ngày hè dai dẳng còn sót lại cuối mùa.
Sendai đón tôi bằng
gương mặt yên ả dịu dàng của buổi sáng đầu thu vùng Đông Bắc. Ấn tượng đầu tiên
của tôi về nhà ga trung tâm của Sendai là sự rộng mở và náo nhiệt của cả một
“khu phố” nằm chìm trong lòng đất, với lối đi thênh thang và dài tít tắp có những hàng cột sáng choang biển quảng cáo
và luôn luôn rầm rập bước chân người. Nghe nói đây là nhà ga mới được tái thiết
sau khi bị thiệt hại khá nặng trong đợt thiên tai xảy ra vào tháng 3 năm 2011.
Không rõ mức độ thiệt hại như thế nào và công trình khôi phục của người địa
phương đã vất vả, tốn kém ra sao, tôi chỉ có cảm giác rằng cảnh hoành tráng của
ga Sendai tấp nập và hiện đại cứ như một nụ cười ngạo nghễ của xứ sở ngoan cường
đã nhận lấy định mệnh phải sống cùng với thiên nhiên khắc nghiệt!
Những chuyến tàu địa
phương ở đây cũng khiến tôi ngạc nhiên vì ghế ngồi có vẻ rất sang trọng, khác hẳn
với tàu điện Tokyo chỉ có hai dãy ghế chạy dọc theo thành tàu gợi cảm giác của
xe buýt nội đô, do phải đối ứng với lượng khách đi tàu quá đông vào giờ cao điểm.
Với một ít thông tin tra cứu được, tôi “dò dẫm” hết lên tàu, xuống tàu rồi lại
tìm xe buýt địa phương để tham quan một số nơi được giới thiệu trên các website
du lịch.
Và tôi dành riêng một
buổi chiều để tìm đến thắng cảnh Matsushima.
Đường sắt đi từ ga
Sendai đến ga Matsushima mất hơn ba mươi phút, với khoảng một phần ba đoạn đường
chạy dọc theo bờ biển, khiến tôi vừa thích thú nhìn phong cảnh đang mở ra trước
mắt vừa hồi hộp nhìn lên biển báo xem đã đến ga mình cần xuống hay chưa.
Xuống tàu, tôi đi bộ
một vòng cung ngắn trên bờ vịnh thì gặp bến du thuyền. Thế là cũng xếp hàng
theo mọi người mua vé và lên thuyền ngoạn cảnh. Tôi vốn không có nhiều cảm xúc
với biển khơi nhưng khi đứng trên du thuyền đợi giờ xuất phát, nhìn hải âu chao
lượn từng đàn trên sóng nước, cứ đỗ xuống mạn thuyền rồi tung cánh bay lên,
trong khoảnh khắc tôi cảm nhận được cả sự dữ dội mênh mông và nét thân thương,
dịu dàng của biển. Và lần đầu tiên tự “đãi” mình cảm giác của một người đang vẫy
chào bờ bến để “ra khơi”!
Trong năm mươi phút
dạo chơi trên chuyến du thuyền, tôi đã được thoải mái thả hồn vào mênh mang
sóng nước và tha hồ chụp ảnh những đảo thông muôn hình muôn vẻ cứ thay nhau hiện
rõ dần trước mắt để rồi sau vài phút lại khuất dần vào màu xanh vô tận của vịnh
biển bao la. Loa phát thanh trên du thuyền thuyết minh chi tiết về vẻ đẹp thiên
nhiên và ý nghĩa du lịch của Matsushima, về hình dáng và nét đẹp đặc trưng của
từng cụm đảo trên vịnh, về những tổn thất mà đợt thiên tai năm 2011 gây ra cho
vịnh biển v.v... nhưng tôi không thể tập trung để lắng nghe tường tận vì mải mê
ngắm cảnh đẹp bên ngoài ô cửa kính và liên tục xoay trở tìm góc độ hợp lý để
ghi hình.
Năm mươi phút cứ tưởng
là khá dài nhưng loáng cái thuyền đã quay về bến. Cũng vừa lúc mặt trời khuất
vào mây nên mới hơn bốn giờ chiều mà không gian sẫm lại, mặt biển cũng mất đi
màu xanh sáng mà tôi đã may mắn ghi được bằng máy ảnh trước đó không lâu. Xong
chuyến du ngoạn qua các đảo nhưng khung cảnh thiên nhiên rộng mở ở nơi này cứ
níu chân tôi lại. Vì cũng chẳng có gì phải vội vàng nên tôi quyết định đi tản bộ
khắp xung quanh cho đến khi trời tối.
Nhờ cái quyết định
ngẫu hứng kia mà tôi có cơ hội ngắm nhìn và ghi thêm một số hình ảnh đẹp. Tôi
tình cờ phát hiện con dốc nhỏ dẫn lên thành Sendai trong lúc đi lang thang ở
công viên chạy dọc theo bờ biển. Cũng là kiến trúc kiểu thành quách phổ biến thời
lãnh chúa nhưng thành Sendai chỉ là một lâu đài nho nhỏ so với những tòa thành
uy nghiêm, cao rộng và nổi bật về tính năng quân sự như thành Osaka ở Kansai
hay thành Kumamoto ở Kyushu. Có lẽ vì dáng vẻ khiêm tốn như vậy nên mặc dù nằm
ngay bên bờ vịnh Matsushima nhưng thành Sendai không phải là một điểm đến thu
hút nhiều du khách. May mắn là lúc tôi vào mua vé tham quan thì có một du khách
Nhật cũng mới bước vào. Một người đàn ông trung niên và tầm thước, không hẳn
phong trần nhưng cũng toát ra cái vẻ đặc trưng của kiểu người trầm lặng thường
đi du lịch “bụi” một mình. Hai người lặng lẽ nối tiếp nhau leo hết đoạn cầu
thang này sang đoạn cầu thang khác, lặng lẽ xem những tấm ảnh và vật lưu niệm
bày trong các gian phòng, rồi cuối cùng gặp nhau ở ban công chìa ra phía ngoài
gian phòng chính của tầng cao nhất. Tuy chỉ là một đoạn hành lang hẹp nhưng quả
là một vị trí lý tưởng để ghi hình, đặc biệt là hình toàn cảnh vịnh Matsushima
nhìn từ trên cao xuống, đủ gần để nhìn thấy những đảo thông có hình dáng đẹp và
đủ xa để ghi được tầm nhìn bao quát, để phủ lên bức hình chút khói sương bảng lảng
của buổi chiều thu nhẹ và ngân như một nốt nhạc trầm. Nhờ có vị khách Nhật cùng
đến tham quan thành Sendai hôm ấy mà tôi đã có được tấm ảnh lưu niệm ở góc ban
công nhỏ hẹp mà lý tưởng như một đài vọng cảnh, với gió lùa trong tóc và những
cụm thông của vịnh Matsushima thấp thoáng phía sau lưng...
Sau khi tạm biệt
lâu đài nhỏ bé, tôi còn lang thang thêm một hồi lâu nữa quanh bờ vịnh, rồi lên
cây cầu dài màu đỏ dẫn ra một hòn đảo có diện tích kha khá để tham quan. Thỉnh
thoảng tôi lại gặp một nhóm du khách cũng đang đi dạo loanh quanh trên con đường
mòn len lỏi dưới những gốc tùng cổ thụ. Vài nhóm học sinh người địa phương đang
vui đùa trong những căn chòi hình lục giác – một kiểu bố trí chỗ ngồi dành cho
những sinh hoạt dã ngoại, khiến tôi thầm ghen tỵ với những bạn trẻ người Nhật
sinh trưởng ở nơi này. Khi dừng chân ở doi đất nhô ra biển là điểm cuối của một
nhánh đường mòn, tôi tranh thủ bấm máy thêm vài lượt và nhận ra bóng hoàng hôn
đã chuyển sang màu thẫm. Biết rằng đã đến thời điểm kết thúc của một chuyến
lang thang trên vịnh suốt buổi chiều nhưng tôi không hề có cảm giác bất an khi
một mình đứng trên doi đất vắng người và lộng gió, cũng như trên suốt đoạn đường
không bóng người nhưng rậm rạp cỏ cây dẫn tôi trở lại chiếc cầu bắc qua bờ vịnh.
Sau cái buổi chiều
lang thang ấy, tôi mới nhận ra, một cách rất chân thành, rằng ký ức của tôi về
Matsushima không giống như ký ức về một thắng cảnh nổi bật, một vẻ đẹp độc đáo
làm cho khách du sửng sốt, mà đúng hơn là ký ức về một vùng thiên nhiên phong
phú, rộng mở nhưng lại rất thâm trầm. Tôi đã tìm đến Matsushima với tâm thế của
một du khách đi tìm một tuyệt cảnh được nhiều người ngưỡng mộ, nhưng ở điểm đến
thì Matsushima không còn là một khách thể hùng vĩ đối diện với con người tìm kiếm
trong tôi. Matsushima trở thành một vòng tay đón tôi vào thế giới thiên nhiên
thân thuộc dịu dàng và mênh mông bất tận. Con người tìm tòi, khám phá của cá
nhân tôi không biết tự lúc nào đã trượt vào thế giới êm dịu bao la ấy, nên đã
quan sát, cảm nhận mọi điều bằng cái cách của một sinh vật nhỏ bé chìm đắm giữa
thiên nhiên, chứ không phải bằng đôi mắt của một người xem cảnh quan là một thứ
khách thể để thẩm định và phán xét.
Điều thú vị là tâm
thức ấy không phài chỉ là kinh nghiệm một lần của tôi với Matsushima. Đó là những
trải nghiệm khó quên của tôi trong những cuộc du hành tìm đến bao nhiêu vùng
thiên nhiên tươi đẹp, trong đó có “Nhật Bản tam cảnh” và nhiều danh thắng trên
khắp mọi miền đã từng cuốn hút bước chân tôi.
Chuyến đi đến
Amanohashidate từ ga Kyoto, và sau đó là chuyến ra đảo Miyajima từ ga
Hiroshima, cũng là kiểu trải nghiệm như vậy.
Amanohashidate là
tên một thắng cảnh nổi tiếng ở vịnh Miyazu thuộc Maizuru – một thành phố phụ cận
Kyoto. Từ ga Kyoto đến vịnh Miyazu mất khoảng hai tiếng đồng hồ, và du khách có
thể lựa chọn phương tiện di chuyển là tàu hỏa hay xe buýt.
Với bản tính “tham
lam” muốn biết nhiều cung đường khác nhau trong những chuyến du hành, tôi đã chọn
cách... sử dụng cả hai phương tiện. Đi bằng xe buýt và về bằng tàu hỏa. Chỗ ngồi
trên xe buýt thì không thoải mái bằng chỗ ngồi trên một toa tàu rộng nhưng tuyến
đường xe buýt thường linh hoạt ngoằn ngoèo, nên ngồi trên xe cũng dễ được thưởng
thức nhiều bức tranh phong cảnh khác nhau.
Nếu như ký ức của
tôi về buổi chiều ở Matsushima là một bức tranh tương đối tĩnh với hoạt động chủ
yếu là nhìn ngắm, thì kỷ niệm về chuyến tham quan Amanohashidate lại là một đoạn
phim, trong đó khung cảnh được quan sát liên tục thay hình đổi dạng do sự thay
đổi vị trí của người quan sát. Du thuyền ở Matsushima đi theo một tuyến đường
khép kín, nên cảm giác của tôi khi ấy là mình vẫn chỉ đang loanh quanh một chỗ
để ngắm nhìn. Còn du thuyền ở Amanohashidate thì lại đưa tôi đi dọc theo hòn đảo
kỳ lạ như một “chiếc cầu thần” vắt qua vịnh biển. Tôi có điểm dừng chân hẳn hoi
để tránh rét tạm thời, thậm chí có thể đi dạo quanh khu phố, tham quan các đền
chùa gần đấy nếu thích thú và có đủ thời gian. Nhưng khi ấy ngoài trời đang gió
mạnh và mưa bay lất phất. Sóng biển xô liên tục và phủ bọt trắng xóa lên chỗ cầu
tàu, khiến cho các nhân viên của dịch vụ du thuyền vừa đón khách lên bờ đã vội
vã đưa khách vào gian phòng dành để nghỉ chân và luôn miệng cảnh báo, ngăn cản những du khách trẻ tuổi
muốn nán lại chụp ảnh gần mép nước. Tôi không muốn làm phiền những người đầy
trách nhiệm với nghề như vậy nên ngoan ngoãn chui vào phòng chờ tìm lấy một chỗ ngồi dễ chịu, nhân tiện tìm mua một cốc
đồ uống nóng ở máy bán hàng tự động ngay gần đó, rồi nhìn qua ô cửa kính ngắm cảnh
biển bên ngoài. Nhưng ngồi được một lúc thì con người quan sát trong tôi lại bắt
đầu cựa quậy. Tôi nhìn theo các bạn trẻ cứ thường xuyên ra vào qua cánh cửa nhỏ
cuối gian phòng, tự nhủ mình cũng nên thử không khí bên ngoài một chút.
Bên ngoài trạm dừng
chân của dịch vụ du thuyền là công viên chạy dọc theo bờ biển. Tôi khám phá ra
rằng mình có thể nhìn bao quát cảnh vịnh để ghi hình thoải mái mà không phải đến
chỗ cầu tàu, chỉ cần đi dọc theo công viên một quãng cho đến khi tầm nhìn không
còn vướng những chiếc du thuyền đang cập bến. Giữa công viên và bãi biển có một
bức tường chắn sóng nên các nhân viên dịch vụ không cần phải nhắc nhở hành
khách đi dạo ở quãng này, và bức tường không quá cao để cản trở du khách cần chụp
ảnh. Điều đáng tiếc duy nhất là thời tiết lúc ấy đang biến động bất thường. Trời
âm u nên biển cũng thẫm màu và khật khừ cuộn sóng. Gió lồng lộng thổi còn mưa
thì lúc tạnh lúc rơi. Tôi loanh quanh một lúc, chụp được vài tấm ảnh thì lại phải
quay về gian phòng đợi để tránh mưa, sưởi ấm. May mắn là sau mấy lần
tôi “nhấp nhổm” kiểu ấy thì mưa nhẹ
hạt hẳn đi, màu mây xám nhạt dần và mặt trời sắp lặn bỗng tạo nên một vầng sáng
rực hồng rất đẹp phía chân mây. Tôi sung sướng ghi hình thắng cảnh lúc hoàng
hôn mà cứ cảm giác như mình đang được nhận một ân huệ thiêng liêng từ bàn tay
vô hình của thiên nhiên vĩ đại, ngỡ như có một vị thần nào đó vì thương hại cho
con người quan sát trong tôi mà vén tạm vầng mây cho tôi được ngắm nhìn vịnh biển
hoàng hôn trong chốc lát!
Cảm giác có vẻ “thần
bí” ấy còn quay lại với tôi nhiều lần nữa trong những chuyến du hành. Nhưng đặc
biệt để lại trong tôi ấn tượng sâu đậm nhất là lần tham quan hồ Biwa, cũng vào
một buổi chiều trời thoắt mưa thoắt tạnh, và lần tôi ngắm vịnh Miyajima từ chuyến
phà đưa khách du ra đảo.
Về sau, có lần nhân
nói chuyện du lịch và những thắng cảnh ở nơi này nơi khác, một đồng nghiệp người
Nhật hỏi tôi thích nhất cảnh đẹp nào ở “Nhật Bản tam cảnh” mà tôi đã tham quan.
Đây quả là một câu hỏi khó trả lời, vì cứ sau mỗi cuộc du hành thì mỗi điểm đến
đều trở thành một mảng ký ức đẹp trong tôi, với những hình ảnh gắn liền với đặc
trưng cảnh quan khó mà so sánh theo kiểu hơn thua, cao thấp. Nhưng sau một hồi
lục lọi trong ký ức, tôi nhận ra hình ảnh có vẻ rạng rỡ nhất là cảnh vịnh
Miyajima lúc chiều tà. Thành thật chia sẻ cùng đồng nghiệp, tôi chỉ nghĩ rằng
mình đang trình bày một kinh nghiệm rất cá biệt và rất chủ quan, không ngờ lại
nhận được sự tán thưởng nồng nhiệt vì đồng cảm! Phải chăng điều đó cũng là một
món quà dễ chịu dành cho những ai đã lặn lội vất vả qua nhiều cuộc du hành?
Nói Miyajima đẹp
hơn Matsushima hay Amanohashidate thì không hẳn đúng. Chỉ là trong ký ức của
tôi thì cảnh trời chiều ở Miyajima lung linh hơn với quầng mây trên cao
và mặt nước dưới biển phản chiếu ánh mặt trời rực rỡ. Khoảnh khắc ấy tôi lại
đang di chuyển qua vịnh biển trên một chuyến phà. Ấn tượng về cảnh quan trong
tôi luôn được tô đậm thêm nhờ cảm giác thích thú khi “xê dịch”. Theo
một cách nào đó, có thể hình dung rằng trong kho ký ức của tôi về “Nhật Bản tam
cảnh” thì những hình ảnh về Miyajima được ghi lại nhiều nhất trong tư thế “động”
và lưu giữ được khoảnh khắc lung linh nhất của một buổi hoàng hôn trên vịnh biển.
Ấn tượng của tôi về Miyajima “đậm” hơn hai trường hợp còn lại chính là vì khoảnh
khắc này chăng?
Nói “đậm” hơn toàn bộ cũng không chính xác. Chỉ là sự
ngưng đọng tự nhiên của ký ức mà thôi. Trước khi tìm đến thắng cảnh này, mỗi lần
nghe nhắc đến địa danh Miyajima hoặc Itsukushima là trong đầu tôi lại hiện lên
bức ảnh chụp cổng “đền nổi” Itsukushima đỏ rực, nhưng sau chuyến tham quan lần ấy
thì cảnh hoàng hôn trên mặt biển đã thay thế cho hình ảnh quảng cáo truyền thống
đã trở nên quen thuộc như một biểu tượng về thắng cảnh của Hiroshima. Và bao giờ
cảnh hoàng hôn rực rỡ lung linh ấy cũng dừng lại trong đầu tôi một lúc, rồi cuốn
phim hồi ức mới chầm chậm chuyển sang cảnh công viên trên đảo với những đôi mắt
nai ngơ ngác hiền lành, rồi cuối cùng mới đến hình ảnh ngôi “đền nổi” bề thế
nghiêm trang đang nhìn ra mênh mông sóng nước...
Cho nên, trong ký ức của tôi thì “Nhật Bản tam cảnh”
không phải là những bức tranh “tĩnh vật” gây chấn động thị giác người xem, mà
là những nẻo đường đưa khách du tìm về với những vùng thiên nhiên đẹp trong vẻ
thâm trầm, nên thơ, trong trẻo. Nói là “những nẻo đường” bởi đường đi quan trọng
hơn điểm đến. Điểm đến chỉ trình hiện cảnh quan còn đường đi chở theo bao mong
chờ, luyến lưu, hoài niệm v.v... Ở điểm đến khách du chỉ là người quan sát, còn
trên đường đi thì, vẫn người khách ấy, có khi vừa quan sát vừa tìm kiếm, hay vừa
quan sát vừa mơ mộng, nhớ nhung.
Trên đất Nhật, tôi đã thực hiện nhiều chuyến đi dài
và tốn kém chỉ vì một điểm đến hấp dẫn, vì chút lòng mê chấp của một kẻ vô
minh, nhưng ký ức của tôi về cuộc hành trình ấy bao giờ cũng đẹp nhất, sáng rõ
nhất ở quãng đường mà tôi thả hồn theo đam mê dịch chuyển. Một thứ kết quả
ngoài mong đợi nhưng lại rất đáng yêu. Như chuyến đi thăm hồ Towada mang lại
cho tôi những thước phim ký ức tuyệt đẹp về núi rừng ở miền Đông Bắc. Chuyến đi
tìm núi lửa Aso khiến tôi muốn tan ra trên thảo nguyên mùa đông thăm thẳm một sắc
vàng êm dịu. Hay cuộc hành trình đến Nikko, qua đoạn đường quanh co bên sườn
núi cháy rực những lá vàng lá đỏ, đã giúp tôi thấu hiểu cảm xúc của các thi
nhân xứ Phù Tang muốn thông qua cái chết để hóa thân vào thiên nhiên mênh mông
bất tuyệt v.v...
Bao nhiêu “cảnh” là bấy nhiêu đểm đến. Còn những nẻo
đường du hành thì vẫn trải ra bất tận đón bàn chân du khách từ ngàn xưa cho đến
ngàn sau!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét