Nói một cách
chặt chẽ thì sự tồn tại của phái Shirakaba chỉ là khoảng thời gian mà các nhà
văn trong nhóm này thực hiện tạp chí văn nghệ Shirakaba, nghĩa là từ năm 1910 đến năm 1923. Mười ba năm không hẳn
là một khoảng thời gian dài đối với một sự nghiệp văn chương cũng như sự tồn tại
của một tạp chí văn nghệ. Nhưng với 160 số tạp chí được phát hành trong khoảng
thời gian ấy cùng với nhiều hoạt động khác trong lĩnh vực văn chương, mỹ thuật
và cả trong đời sống xã hội, các nhà văn nhóm Shirakaba đã thực sự có đóng góp
lớn cho tiến trình hiện đại hóa văn học và cho việc phát triển ngành mỹ thuật
hiện đại ở Nhật Bản đầu thế kỷ XX.
Sự xuất hiện và tồn tại của tạp chí Shirakaba
thời Taisho không chỉ là một thành công về hoạt động văn nghệ của các nhà văn –
nghệ sĩ nhóm Shirakaba mà còn là một thành tựu quan trọng của tiến trình hiện đại
hóa văn học – nghệ thuật Nhật Bản sau cải cách Minh Trị. Tạp chí Shirakaba trước hết đã thực hiện tốt vai
trò cơ quan ngôn luận của bút nhóm, là cửa sổ để các nhà văn – nghệ sĩ trong
nhóm giao lưu với các nghệ sĩ, trường phái văn học nghệ thuật khác cùng hoạt động
trong đời sống văn nghệ thời Taisho và qua đó khẳng định quan điểm nghệ thuật
riêng của Shirakaba.
Ở đây cần nói thêm rằng báo chí nói chung và các tạp chí văn nghệ nói riêng
là một phần quan trọng của đời sống văn nghệ Nhật Bản thời hiện đại. Đã có nhiều
tạp chí văn nghệ được sáng lập trong tiến trình hiện đại hóa văn học Nhật Bản,
chủ yếu là giai đoạn từ cải cách Minh Trị đến trước chiến tranh Thế giới thứ
hai. Tạp chí Hototogisu do nhà thơ
Masaoka Shiki sáng lập, là diễn đàn chủ yếu của trường phái thơ haiku cách tân.
Subaru được thực hiện bởi sự cộng tác
của Mori Ogai và vợ chồng nhà thơ Yosano Tekkan – Akiko, đăng nhiều thơ tự do
và sáng tác của các nhà văn theo trường phái lãng mạn. Tạp chí Zamboa do nhà thơ Kitahara Hakushu chủ
biên, về sau cũng trở thành diễn đàn của các nhà văn, nhà thơ thuộc trường phái
lãng mạn. Tạp chí Shinshicho do nhà
biên kịch Osanai Kaoru sáng lập, về sau được điều hành bởi một nhóm cựu sinh
viên trường Đại học Tokyo. Ngoài ra còn có nhiều báo hoặc tạp chí thông thường,
có nội dung tổng hợp nhưng cũng được biết đến như là nơi giới thiệu nhiều tài
năng văn học, nhiều sáng tác văn chương giá trị như Chuo koron, Asahi v.v...
Trong tiến trình hiện đại hóa văn học, những tạp chí kể trên đều được sử dụng
như một diễn đàn rộng rãi để các nhà văn, nghệ sĩ công bố sáng tác mới, bày tỏ
ý kiến phê bình về những sáng tác của các cây bút đương thời, giới thiệu những
thành tựu kinh điển của văn học thế giới hoặc tác phẩm mới của văn học phương
Tây và cung cấp cho độc giả những thông tin bổ ích về hoạt động văn hóa – văn
nghệ trong và ngoài nước. Nhờ có hoạt động của các tạp chí văn nghệ mà các trường
phái văn nghệ, các nhà văn – nghệ sĩ biết đến sáng tác của nhau, trao đổi ý kiến
về sáng tác nghệ thuật và về tác phẩm của nhau, phê bình, học hỏi và kế thừa
nhau để cùng xây dựng nền văn học Nhật Bản hiện đại.
So với các tạp chí đương thời thì Shirakaba
cũng thực hiện đầy đủ các vai trò của một tạp chí văn nghệ điển hình. Các nhà
văn – nghệ sĩ nhóm Shirakaba đã thông qua tạp chí để giới thiệu rộng rãi những
sáng tác mới có khả năng gây chú ý trên văn đàn, những bài lý luận phê bình có
giá trị và nhiều thông tin về các nghệ sĩ lớn trên thế giới, về hoạt động văn
hóa – văn nghệ ở các nước phương Tây. Đặc biệt, tạp chí này được sáng lập và thực
hiện bởi một nhóm nhà văn – nghệ sĩ đồng trang lứa, quen biết nhau từ lúc còn
là học sinh trường Gakushuin, trong khi những tạp chí đương thời thường do một
nhà văn hay nhà thơ có tài năng và uy tín đứng ra sáng lập. Được điều hành bởi
một nhóm người trẻ tuổi bằng nguồn tài chính do các thành viên tự đóng góp và
được duy trì liên tục suốt 13 năm, tạp chí Shirakaba
là minh chứng rõ ràng cho tinh thần yêu văn nghệ và ý chí dấn thân vì hoạt động
văn nghệ của các nhà văn trong nhóm, đồng thời cũng là một thành công hiếm thấy
của việc hợp tác cùng bằng hữu trong lĩnh vực làm báo, viết văn.
Nhưng điều quan trọng là tạp chí Shirakaba
đã thể hiện một sự dung hợp hài hòa hai lĩnh vực văn chương và mỹ thuật trong
hoạt động văn nghệ của phái Shirakaba. Được biết đến như một tạp chí văn nghệ
nhưng nét đặc trưng của Shirakaba so với các tạp chí văn học đương thời là
khuynh hướng nhấn mạnh yếu tố mỹ thuật, như nhận xét của nhà nghiên cứu
Nishimura Shuko:
Shirakaba là một tạp chí văn nghệ được thực hiện theo chủ
trương của Mushanokoji Saneatsu nhưng đồng thời cũng thể hiện rõ ràng đặc điểm
của một tạp chí mỹ thuật. Những thành viên của nhóm Shirakaba có mong muốn tiếp
nhận mỹ thuật phương Tây, đã viết phê bình mỹ thuật đăng trên tạp chí, tổ chức
nhiều đợt triển lãm mỹ thuật do nhóm Shirakaba chủ trì và để lại ảnh hưởng lâu
dài trong lĩnh vực mỹ thuật Nhật Bản (...) Mỗi số của tạp chí đều có đăng bài
viết về hội họa và triển lãm, Shirakaba mở đầu cho việc giới thiệu mỹ thuật
phương Tây đã thể hiện đầy đủ vai trò của một tạp chí mỹ thuật[1].
Tuy rằng trong số những thành viên chủ chốt của nhóm Shirakaba chỉ có
Arishima Ikuma là họa sĩ chuyên nghiệp được đào tạo bài bản ở Tây Âu, Shirakaba
đã thực hiện tốt vai trò tiên phong trong hoạt động giới thiệu và phát triển nền
mỹ thuật hiện đại Nhật Bản bằng cách chọn lọc những tác phẩm hội họa của những
nghệ sĩ lớn hoặc những trường phái nổi tiếng, được giới mỹ thuật phương Tây
đánh giá cao để giới thiệu trên từng số tạp chí Shirakaba và trong các cuộc triển lãm mỹ thuật do nhóm Shirakaba tổ
chức, đăng tải nhiều bài phê bình mỹ thuật có giá trị của các họa sĩ, nhà
nghiên cứu mỹ thuật trong và ngoài nhóm và thông qua hoạt động của tạp chí Shirakaba để kết nối sinh hoạt mỹ thuật
của các họa sĩ Nhật Bản với nghệ sĩ phương Tây.
Với những động thái tích cực như trên, tạp chí Shirakaba đã trở thành diễn đàn mỹ thuật của các họa sĩ Nhật Bản
thuộc thế hệ đầu tiên được đào tạo ở phương Tây trong ngành mỹ thuật hiện đại,
tạo nên không khí sinh hoạt mỹ thuật sôi động trong nước và cũng làm cho các nước
có nền mỹ thuật rực rỡ, lâu đời ở phương Tây biết đến những hoạt động bước đầu
của mỹ thuật hiện đại Nhật Bản. Sự cộng tác của nhà nghiên cứu mỹ thuật Bernard Leach trong các hoạt động mỹ thuật của
nhóm Shirakaba vừa là một bằng chứng quan trọng cho thành tựu và uy tín của
nhóm này trong ngành mỹ thuật đương thời, vừa là một sự kết nối có ý nghĩa giữa
mỹ thuật Nhật Bản với mỹ thuật phương Tây, giữa sự phát triển của mỹ thuật hiện
đại và việc bảo tồn các nghệ thuật chế tác truyền thống.
Cá nhân Arishima Ikuma còn dịch những công trình quan trọng về mỹ thuật
phương Tây để góp phần phổ biến tri thức về mỹ thuật hiện đại trong nước và
tích cực tham gia nhiều hoạt động có quy mô lớn của giới mỹ thuật Nhật Bản
đương thời như tham gia các triển lãm mỹ thuật có tầm cỡ quốc gia, tham gia vận
động thành lập và điều hành những tổ chức quy mô lớn trong ngành mỹ thuật.
Trong khi đó, một thành viên khác của nhóm Shirakaba là Yanagi Muneyoshi lại
có đam mê riêng về hoạt động bảo tồn các ngành mỹ nghệ dân gian truyền thống và
đã có nhiều đóng góp quan trọng cho lĩnh vực này, từ những sưu tầm, nghiên cứu
cá nhân về sản phẩm mỹ thuật ở Triều Tiên và các vùng trong nước Nhật đến những
hoạt động quy mô lớn như vận động thành lập bảo tàng, thành lập Hiệp hội nghệ
thuật dân gian Nhật Bản và thực hiện tạp chí Mingei để giới thiệu thường xuyên những sản phẩm mỹ nghệ, phổ biến
thông tin về tình hình bảo tồn và phát triển các ngành nghệ thuật dân gian.
Những hoạt động của nhóm Shirakaba trong lĩnh vực mỹ thuật thể hiện rõ tinh
thần của người Nhật Bản trong cách thức tiếp thu văn hóa ngoại lai kết hợp với
bảo tồn văn hóa truyền thống. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong tiến trình hiện
đại hóa đất nước sau Minh Trị duy tân. Nhờ sự đóng góp của nhiều nghệ sĩ, nhà
nghiên cứu mà Arishima Ikuma, Kinoshita Mokutaro, Yamawaki Shintoku là những
người tiên phong, với tinh thần tích cực vì sự phát triển của mỹ thuật hiện đại
là một lĩnh vực hoàn toàn mới đối với văn hóa Nhật Bản, bằng những hoạt động
chuyên nghiệp, có quy mô và tầm ảnh hưởng rộng lớn mà hội họa và điêu khắc
phương Tây đã nhanh chóng hòa nhập vào đời sống văn hóa – nghệ thuật chung của
cả nước. Trong khi đó, các ngành mỹ nghệ truyền thống như đồ gốm, sơn mài, dán
vàng, nhuộm vải ở nhiều địa phương vẫn được bảo tồn và tiếp tục phát triển. Đến
giữa thế kỷ XX thì mỹ thuật Nhật Bản trở thành một lĩnh vực nghệ thuật có quy
mô lớn, bao gồm cả những ngành mỹ nghệ truyền thống và mỹ thuật hiện đại theo
phong cách phương Tây. Phái Shirakaba với những đóng góp tích cực trong hoạt động
văn hóa – văn nghệ thời Taisho đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử phát triển
của ngành mỹ thuật Nhật Bản hiện đại.
Ấn tượng mà các nhà văn – nghệ sĩ của nhóm Shirakaba để lại trên văn đàn
nói riêng và trong đời sống văn hóa – xã hội Nhật Bản nói chung còn được tạo
nên từ những hoạt động xã hội của các nhà văn trong nhóm. Công trình “làng mới”
thể hiện ước vọng của Mushanokoji Saneatsu về một xã hội ôn hòa, không tranh chấp
và là điều kiện lý tưởng để mỗi cá nhân đều có thể phát huy những tiềm lực tốt
đẹp của bản thân, xây dựng một cuộc sống no ấm, đầy đủ về vật chất và phong phú
về tinh thần. Ý tưởng này đã thu hút nhiều người tham gia xây dựng “làng mới” tại
Miyazaki và Saitama, và sự tồn tại của “làng mới” ở Saitama đến ngày nay cho thấy
tư tưởng nhân đạo và chủ nghĩa lý tưởng của Mushanokoji có sức ảnh hưởng nhất định
đến người dân bình thường trong xã hội.
Tuy rằng “làng mới” không thực hiện được những chủ trương ban đầu của
Mushanokoji, cũng như “nông trường tập thể” ở Sapporo không ổn định và phát triển
như mong muốn của Arishima Takeo nhưng qua những hoạt động thực tế, các nhà văn
– nhà tư tưởng của nhóm Shirakaba đã thể hiện thái độ tích cực, tinh thần dấn
thân của lớp trí thức và văn nghệ sĩ tiền phong trong công cuộc hiện đại hóa đất
nước. “Làng mới” ngày nay vẫn dành vị trí trang trọng nhất cho công viên tưởng
niệm Mushanokoji Saneatsu. Những thành tựu văn học và mỹ thuật của Mushanokoji
cùng với những vật lưu niệm và hình ảnh về nhà văn được trang trọng giới thiệu
trong bảo tàng mỹ thuật mang tên ông, do cộng đồng cư dân trong làng thành lập
và quản lý.
Tương tự, Arishima Takeo dù đã tự kết thúc cuộc đời và văn nghiệp của mình
quá sớm nhưng đến nay vẫn là nhà văn chiếm vị trí số một trong đời sống văn học
ở vùng Hokkaido. Những nơi chốn còn lưu lại dấu tích của nhà văn trong quá
trình công tác và viết lách ở Sapporo được bảo tồn nguyên vẹn để làm nơi trưng
bày, giới thiệu những vật lưu niệm về cuộc đời và hoạt động văn nghệ của
Arishima. Bảo tàng và bia lưu niệm nhà văn tại Sapporo cũng là một địa điểm
tham quan cho du khách đến thăm thành phố.
Số lượng các thành viên nòng cốt của phái Shirakaba không nhiều nhưng quá
trình hợp tác tốt đẹp và những hoạt động tích cực của họ trải rộng trên nhiều
lĩnh vực văn hóa – xã hội thời Taisho gắn với sự tồn tại của tạp chí văn nghệ Shirakaba đã tạo nên ấn tượng khá sâu sắc
về một trường phái tư tưởng – văn học trong đời sống văn nghệ sôi nổi đầu thế kỷ
XX. Tuy thường được nói đến như một trường phái văn nghệ đối lập với trường
phái tự nhiên về quan niệm sáng tác nhưng thái độ và nội dung hoạt động văn nghệ
của phái Shirakaba cho thấy các nhà văn trong nhóm này thiên về khẳng định hơn
là phủ định, hướng đến việc giới thiệu và xây dựng những giá trị mới hơn là phê
phán hay phủ nhận những hạn chế của quá khứ và hiện tại. Cho nên, dù có những
thất bại hay hạn chế không tránh khỏi, phái Shirakaba vẫn lưu lại trên văn đàn
Taisho một hình ảnh đẹp của một lớp văn nghệ sĩ hết lòng vì nghệ thuật, nhiệt
tình vì hoạt động giao lưu văn hóa – văn nghệ trong nước và quốc tế, dấn thân
vì một nền nghệ thuật Nhật Bản phong phú hơn và cũng vì một xã hội hiện đại tốt
đẹp hơn.
Tuy nhiên, những hoạt động mà các thành viên của phái Shirakaba cùng hợp
tác để thực hiện chủ yếu chỉ diễn ra trong khoảng thời gian 13 năm mà tạp chí Shirakaba tồn tại. Và ngay cả trong thời
gian duy trì tạp chí thì hoạt động quan trọng nhất của các thành viên trong
nhóm vẫn là sáng tác văn chương. Không chỉ góp phần tạo ra ấn tượng chung về một
trường phái văn học có khuynh hướng tư tưởng và quan niệm sáng tác tương đối thống
nhất, mỗi thành viên của nhóm Shirakaba đều có một sự nghiệp văn chương phong
phú, có phong cách sáng tác riêng và khẳng định được vị trí cá nhân trên văn
đàn đương thời cũng như trong lịch sử văn học hiện đại.
Mushanokoji Saneatsu có văn phong gẫy gọn, giọng văn nhẹ nhàng nhưng tư tưởng
sắc nét, thậm chí phá cách và lập dị. Shiga Naoya thì theo đuổi lối viết hiện
thực, sở trường ở hình thức tự truyện và được tôn xưng là “ông thần của thể loại
truyện ngắn”. Arishima Takeo là nhà văn có nhiều giọng điệu. Thế giới trong tác
phẩm của ông có khi cực kỳ trong trẻo và tươi sáng, có khi lại vô cùng dữ dội
và nghiệt ngã. Arishima cũng là nhà văn trong nhóm chịu ảnh rõ rệt nhất tư tưởng
– văn học phương Tây. Satomi Ton và Nagayo Yoshiro tuy cũng trải quan thời gian
viết cho tạp chí Shirakaba nhưng chủ
yếu phát triển cá tính và sự nghiệp văn chương sau khi Shirakaba đình bản, nên
lại càng tỏ ra độc lập về tư tưởng và lối viết. Satomi Ton thường viết về kinh
nghiệm cá nhân với giọng điệu tỉnh táo, lạnh lùng còn Nagayo Yoshiro thì chuyển
từ giọng văn mềm yếu, tình cảm sang lối viết nặng về triết luận.
Tuy mỗi nhà văn đều có phong cách riêng nhưng điểm gặp gỡ giữa họ trong đời
sống và trong quan niệm về nghệ thuật đã tạo ra những nét đặc thù, dễ nhận thấy
trong thế giới văn chương Shirakaba, và những từ đường nét như vậy đã hình
thành diện mạo văn học của trường phái Shirakaba trong đời sống văn nghệ đương
thời. Với quan niệm mới về con người cá nhân, về chủ nghĩa nhân đạo kết hợp với
việc tiếp thu ảnh hưởng từ văn học, tư tưởng phương Tây, các nhà văn của phái
Shirakaba đã tạo được phong cách riêng với những tác phẩm có giá trị, góp phần
phát triển văn học hiện đại Nhật Bản theo hướng tinh tế hơn và cũng rộng mở
hơn.
Nói đến phái Shirakaba, nhiều nhà phê bình thường nhắc đến lối viết mới mẻ
và bầu không khí đậm chất phương Tây trong sáng tác, từ thơ tự do đến truyện ngắn,
tiểu thuyết và kịch bản sân khấu – điện ảnh.
Ảnh hưởng của tư tưởng – văn học phương Tây thể hiện rõ nét nhất trong sáng
tác của Arishima Takeo – nhà văn của nhóm Shirakaba có thời gian học tập và
sinh sống tương đối dài tại các nước châu Âu, cùng với em trai của ông là họa
sĩ Arishima Ikuma. Dấu ấn phương Tây lưu lại trong tiểu thuyết của Arishima ở
nhiều tác phẩm và nhiều khía cạnh. Có khi là hình ảnh thiên nhiên, con người và
đời sống ở châu Âu hiện lên dưới ngòi bút tả thực như trong tiểu thuyết Kankan mushi. Có khi là những trang viết
nặng tính triết luận xoay quanh những khái niệm của triết học và xã hội học
phương Tây hiện đại như Meiro. Lại có
khi là sự phản ánh tư tưởng, tính cách của con người hiện đại trong xã hội
phương Tây qua cái nhìn chủ quan của tác giả như Aru onna v.v...
Những nhà văn khác trong nhóm Shirakaba, tuy không trải nghiệm cuộc sống thực
tế ở xã hội phương Tây nhưng vẫn có bề dày tiếp xúc với văn hóa phương Tây qua
sách vở, thể hiện trong tác phẩm sự tiếp thu tư tưởng – văn học phương Tây ở những
mức độ khác nhau. Nagayo Yoshiro đưa vào tác phẩm những vấn đề lý luận xoay
quanh sự tồn tại của con người và cơ chế duy trì sự sinh tồn đó. Những nhà văn
khác như Shiga Naoya, Mushanokoji Saneatsu hay Satomi Ton đều viết nhiều tác phẩm
mang tính tự truyện, thể hiện một cách sắc sảo hình ảnh con người cá nhân và những
vấn đề xung quanh sự tồn tại của cá nhân như một thực thể tự nhiên bị điều chỉnh
bởi điều kiện sống và các mối quan hệ xã hội.
Sự tiếp nhận tư tưởng – văn học phương Tây của các nhà văn Shirakaba và sự
phản ánh điều đó trong sáng tác của họ vừa là một khuynh hướng phổ biến của văn
học Nhật Bản trong giai đoạn khởi đầu cho tiến trình hiện đại hóa vừa tạo nên
những nét riêng cho diện mạo văn học Shirakaba so với lối viết của các tác giả
hay các trường phái khác.
Yếu tố phương Tây trong văn học Shirakaba cho thấy văn học Nhật Bản thời Taisho đã trải qua một bước tiến dài so với giai đoạn đầu của thời Meiji trong
tiến trình hiện đại hóa theo hướng tiếp thu văn học phương Tây để cách tân thể
loại và lối viết. Tiến trình này bắt đầu từ việc dịch văn học phương Tây và việc
phóng tác một số tác phẩm như hình thức luyện tập bước đầu để du nhập các thể
loại mới, rồi đến sự xuất hiện của các tác phẩm thuộc thể loại mới như tiểu
thuyết, lý luận, phê bình. Đó là những thành tựu ban đầu của tiến trình hiện đại
hóa văn học Nhật Bản, được thực hiện vào những thập niên cuối thế kỷ XX và gắn
với tên tuổi các nhà văn, nhà lý luận – phê bình thuộc thế hệ đầu tiên của văn
học Nhật Bản hiện đại như Tsubouchi Shojo, Futabatei Shimei, Ozaki Koyo, Yamada
Bimyo v.v... Trong giai đoạn này thì yếu tố phương Tây trong văn học Nhật Bản
còn ở dạng thô cứng, nặng nề như một sự cấy ghép không tránh khỏi khi muốn kiến
tạo một cấu trúc mới khác hẳn với những yếu tố nội tại của văn học Nhật Bản cho
đến thời Edo.
Trong thời gian chuyển tiếp từ thế kỷ XIX sang thế kỷ XX, sự nghiệp hiện đại
hóa văn học Nhật Bản được tiếp nối bởi một đội ngũ những cây bút mới, trong đó
nhiều cây bút sáng tác trên cả hai lĩnh vực thơ ca và văn xuôi, hoặc có đóng
góp quan trọng trong cả hoạt động dịch thuật và sáng tác. Trong tác phẩm của những
nhà văn, nhà thơ thuộc giai đoạn này như Mori Ogai, Natsume Soseki, Shimazaki
Toson, Izumi Kyoka v.v..., ảnh hưởng từ tư tưởng – văn học phương Tây bắt đầu
được biểu hiện đa dạng, tương ứng với sự hình thành nhiều lối viết, nhiều trào
lưu văn học cùng hoạt động trên văn đàn nối tiếp nhau như trường phái lãng mạn,
trường phái tả thực, trường phái tự nhiên, trào lưu xã hội, trào lưu phản tự
nhiên và trường phái duy mỹ. Tác phẩm của Mori Ogai và Natsume Soseki có những
hình ảnh cụ thể, trực tiếp về xã hội phương Tây (Maihime của Mori Ogai và Rondon
to (Tháp London) của Natsume Soseki) do các nhà văn này có
thời gian lưu học khá dài ở Tây Âu. Shimazaki Toson thì làm thơ theo phong cách
lãng mạn và sáng tác tiểu thuyết theo lối viết của chủ nghĩa tự nhiên. Izumi
Kyoka cũng là nhà văn lãng mạn thiên về những đề tài siêu thực, huyền ảo.
Tuy nhiên, ở một mức độ nào đó, có thể thấy trong những tác phẩm của Mori
Ogai hay Natsume Soseki, sự tiếp thu ảnh hưởng phương Tây vẫn gắn liền với ý thức
đối kháng văn hóa – xã hội.
Maihime, Fushinchu (Đang trùng tu) của
Mori Ogai miêu tả những nhân vật có phần gắn bó, bị chi phối hay chịu ảnh hưởng
của văn hóa phương Tây nhưng khi bị đặt vào những tình huống phức tạp thì yếu tố
phương Tây không có vai trò quyết định, hoặc không phải là sự lựa chọn cuối
cùng. Điều đó thể hiện rõ nhất trong tác phẩm Fushinchu, ở đoạn văn miêu tả cuộc
gặp gỡ của nhân vật Watanabe – một quan chức ngoại giao Nhật Bản và Vladivostok
– cô gái Nga, người yêu của Watanabe trong thời gian anh du học ở Đức – tại
Tokyo. Thái độ lãnh đạm của Watanabe trước sự vồn vã của Vladivostok cho thấy
nhân vật này đã thực sự “trở về” nước Nhật sau một thời gian sống trong lòng xã
hội phương Tây. Thái độ ấy như một sự khẳng định về bản thân và về nước Nhật
khi đối mặt với văn hóa phương Tây, cho dù nhân vật nhận thức rất rõ rằng, so với
sự phát triển của phương Tây thì Nhật Bản hiện tại chỉ là một tòa nhà đang xây
dở.
Còn tiểu thuyết của Natsume Soseki thì, hơn cả tác phẩm của Mori Ogai, thể
hiện sự đối lập gay gắt giữa phương Đông và phương Tây, cũng như giữa hiện đại
và truyền thống. Ý thức về sự đối lập này được tác giả ký thác vào dòng suy tưởng
hoặc phát ngôn của nhân vật chính trong những tác phẩm như Sorekara (Từ dạo ấy), Sanshiro (Chàng Sanshiro), Michikusa (Cỏ bên đường) v.v... Thậm chí nhân vật Kenzo trong tiểu thuyết Michikusa đã tỏ ra ác cảm đối với không
khí ngoại quốc sau thời gian du học ở châu Âu: “Trên người anh vẫn còn vương vất thứ mùi khó chịu của một đất nước xa
xôi mà anh mới vừa bỏ lại phía sau. Anh ghét điều đó”[2],
hay nhân vật Daisuke đã phê phán gay gắt xu hướng hiện đại hóa Nhật Bản theo
con đường phát triển của phương Tây đã làm băng hoại những giá trị đạo đức truyền
thống: “Trên một phương diện nào đó nước
Nhật đang từ bỏ chiều sâu để chạy
theo tầm vóc của một cường quốc. Vì là sự mở rộng khiên cưỡng nên hậu quả rất
tai hại (...) Một dân tộc chịu sự áp đặt của phương Tây như vậy thì không còn đầu
óc thanh thản để làm những việc nhân nghĩa nữa”[3].
So với lối viết của Natsume Soseki hay Mori Ogai thì rõ ràng hình ảnh và sự
cảm nhận về phương Tây trong sáng tác của các nhà văn Shirakaba là một sự thể
hiện hết sức khác biệt. Trong khi Natsume Soseki nhắc đến phương Tây như đối tượng
của một sự chỉ trích, còn Mori Ogai nghĩ về sự “gặp gỡ” giữa Nhật Bản và phương
Tây như một quá trình tương tác trong đối kháng thì các nhà văn Shirakaba thể
hiện một thái độ tiếp thu tư tưởng – văn hóa phương Tây một cách tự nhiên, ôn
hòa và tích cực, như việc tiếp thu và vận dụng tri thức bình thường ở con người.
Những khái niệm “tự do cá nhân”, “bình đẳng”, “sức mạnh” tuy có được các nhà
văn Shirakaba đưa vào tác phẩm, nhưng không phải đưa vào để bình luận hay phê
phán về tư tưởng phương Tây mà được ký thác vào tư tưởng của nhân vật để biểu
hiện thái độ, cách suy nghĩ của nhân vật về con người và thế giới. Khung cảnh
thiên nhiên và xã hội phương Tây trong tác phẩm của Arishima Takeo cũng được
miêu tả dưới cái nhìn khách quan, không cố ý nhấn mạnh sự khác biệt khó chấp nhận
hay phê phán những điểm khác biệt giữa phương Tây và Nhật Bản.
Hình ảnh về phương Tây trong văn học Shirakaba và thái độ của các nhà văn
Shirakaba đối với văn hóa phương Tây thể hiện qua sáng tác văn chương cho thấy
phái Shirakaba có xu hướng nhìn nhận văn hóa – tư tưởng phương Tây cũng như tiến
trình hiện đại hóa văn hóa – văn học Nhật Bản theo đường lối phát triển của
phương Tây một cách tích cực và ôn hòa. Những nhà văn Shirakaba không sao chép
văn học phương Tây một cách sống sượng nhưng cũng không thể hiện sự xung đột giữa
văn hóa phương Tây và văn hóa Nhật Bản, không phê phán gay gắt hay đánh giá
theo hướng tiêu cực về hiện đại hóa. Điều đó vừa thể hiện thái độ chừng mực và
xu hướng tích cực của các nhà văn Shirakaba khi cùng góp tiếng nói vào thế giới
văn nghệ đa thanh ở Nhật Bản trong những thập niên đầu thế kỷ XX, vừa cho thấy
việc tiếp nhận tư tưởng – văn học phương Tây vào Nhật Bản từ thời Meiji (1868 –
1912) sang thời Taisho (1912 – 1926) đã có sự thay đổi quan trọng về chất, khi
tư tưởng – văn học phương Tây không còn là yếu tố hoàn toàn khác biệt và xa lạ
để các nhà văn phải tiếp cận bằng con đường dịch thuật và học hỏi bằng cách mô
phỏng. Với tư tưởng và kỹ thuật viết được thể hiện trong văn chương Shirakaba,
có thể thấy kể từ thời Taisho trở đi Nhật Bản đã có được một trí thức – nhà văn
hiện đại có nền tảng học vấn sâu rộng, cập nhật để có thể tư duy và sáng tác
trên tầm nhận thức tương đương và theo cách nhìn, cách nghĩ của văn nghệ sĩ
phương Tây đương thời.
Thêm vào đó, các nhà văn Shirakaba còn thể hiện khuynh hướng tán thành và
tiếp thu tích cực tư tưởng phương Tây về con người cá nhân. Biểu hiện nổi bật
nhất của khuynh hướng này là lối viết tự truyện, trong đó các nhà văn kể lại
không giấu giếm những trải nghiệm cá nhân của chính mình. Tự truyện là một hình
thức phù hợp để các nhà văn Shirakaba thể hiện miêu tả bằng bút pháp hiện thực
hình ảnh con người cá nhân, đồng thời qua đó ký thác lý tưởng theo quan niệm của
bản thân về con người lý tưởng trong xã hội hiện đại.
So với tự truyện của các nhà văn thuộc những trào lưu, trường phái khác
cùng sinh hoạt văn nghệ trên văn đàn Taisho thì tự truyện của phái Shirakaba
thiên về miêu tả đời sống nội tâm, diện mạo tâm lý của nhân vật. Đặc tả con người
ở bình diện tâm lý, tính cách cũng là một đặc điểm quan trọng của văn học
Shirakaba. Đó cũng là biểu hiện của một giai đoạn phát triển mới, từ khi con
người cá nhân trở thành chủ đề trung tâm của văn học hiện đại, làm cho hình ảnh
con người cá nhân trong văn học trở nên sâu sắc hơn và cũng nhờ đó mà sự phản
ánh thế giới trong văn học giàu tính thẩm mỹ hơn, có sức lay động lớn hơn.
Bên cạnh đó, cũng phải nhìn nhận rằng, ấn tượng chung mà phái Shirakaba để
lại trên văn đàn Nhật Bản thời Taisho không phải là một hình ảnh toàn vẹn về một
thành tựu văn học đỉnh cao, hay là về những tài năng đột phá, những nhân cách
xuất chúng. Tư tưởng nhân đạo mang màu sắc chủ nghĩa cá nhân, sự đề cao thái
quá vấn đề phát triển cá tính hay khuynh hướng lý tưởng hóa về con người là những
hạn chế ở các nhà văn Shirakaba, đã thể hiện trong khá rõ trong kết quả hoạt động
xã hội của họ và cũng đã được nhiều nhà văn, nhà phê bình chỉ ra trong các công
trình nghiên cứu. Những hạn chế này cũng là nhân tố làm cho sáng tác của các
nhà văn Shirakaba quá thiên lệch về thế giới tâm lý cá nhân mà có phần thiếu
không khí thực tiễn xã hội.
Như đã nói ở phần trên, phái Shirakaba được hiểu như một sự hợp tác đồng bộ
và liền mạch của các nhà văn trong nhóm chỉ tồn tại trong khoảng thời gian 13
năm, khi hầu hết các thành viên trong nhóm đều tập trung vào hoạt động văn nghệ
ở Tokyo, có điều kiện chung sức thực hiện tạp chí cùng tên, đồng thời tham gia
viết bài cho một số báo và tạp chí văn nghệ khác. Sau khi rơi vào tình huống bắt
buộc phải đình bản tạp chí Shirakaba
do ảnh hưởng của trận động đất lớn ở vùng Kanto năm 1923, mỗi nhà văn trong
nhóm lựa chọn một địa điểm khác nhau để sinh sống, viết văn, rồi dần dần xa rời
nhau về tư tưởng, về kỹ thuật hay quan niệm sáng tác. Có nhà văn trải qua những
thời kỳ xáo trộn tư tưởng do tác động của hoàn cảnh xã hội đương thời, thậm chí
như Mushanokoji Saneatsu đã thay đổi từ quan điểm phản chiến sang chủ trương ủng
hộ đường lối “Đại Đông Á”. Có nhà văn sau thời kỳ gắn bó với tạp chí Shirakaba đã thay đổi hẳn chủ đề và lối viết,
và cuối cùng đã tạo dựng nên sự nghiệp văn học đồ sộ nhưng ít thấy biểu hiện
phong cách đặc thù của nhóm Shirakaba. Nhưng nói chung những nhà văn Shirakaba
đều tìm được vị trí xứng đáng trên diễn đàn văn nghệ đương thời, đều gây được ấn
tượng với độc giả bằng phong cách cá nhân và đều là những nhà văn – nghệ sĩ đã
hoạt động tích cực vì một giai đoạn quan trọng của nền văn học Nhật Bản. Phái
Shirakaba quả thật đã tạo nên một hình ảnh đẹp và đầy sức sống trên văn đàn thời
Taisho, đúng như hình ảnh của loài cây có tên gọi đã được các nhà văn trong
nhóm lựa chọn khi đặt tên cho tạp chí – một cách để thể hiện phong cách riêng,
không khí mới và ký thác những ước vọng đẹp về văn chương nghệ thuật của thời đại
canh tân.
[1] Nishimura
Shuko (2009), 西村修子『美術雑誌としての「白樺」にみる西洋美術認識』(Nhận thức về mỹ thuật phương Tây trong tạp chí Shirakaba, trong vai trò một tạp chí mỹ
thuật), Journal of East Asian Studies,
No.7, 2009.3, pp.137 – 153.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét