Sau Nỗi buồn chiến tranh, Và khi tro bụi là cuốn tiểu thuyết hiếm
hoi được viết nên bởi một người Việt Nam khiến tôi xúc động đến mức gần như bị
ám ảnh, và vì vậy mà cảm thấy kính phục trình độ và lao động nghệ thuật của người
viết. Nhưng tôi không nghiên cứu văn học Việt Nam nên chưa từng nghĩ mình sẽ viết
cái gì đó về cuốn sách này. Tôi chỉ giữ lại, một cách rất tự nhiên, những dòng
văn rất đẹp của Và khi tro bụi như một
kỷ niệm đáng trân trọng, và thấy hạnh phúc vì mình đã may mắn đọc được một quyển
sách như thế.
Chừng 7-8 năm
trước, có một bạn đồng nghiệp hay mượn sách của tôi về đọc. Tôi hào hứng giới
thiệu Và khi tro bụi và đưa cho cô ấy
quyển sách tôi đang có. Lần kế tiếp gặp lại, cô bạn bảo rằng đã đọc xong, nhưng
chỉ nói mấy lời ngắn gọn là câu chuyện trong quyển sách quá buồn. Tôi dường như
có một thoáng hụt hẫng. Tôi biết cô bạn ấy thực sự đã đọc sách, và cũng đã nói
lên cảm nhận của cô một cách rất chân thành. Nhưng tôi có cảm giác nỗi buồn là
một cái gì không chịu nổi với phần đông người Việt. Trước và sau khi nghe cảm
tưởng của cô bạn đọc Và khi tro bụi,
tôi đã thấy nhiều trường hợp người ta “dị ứng” với nỗi buồn. Văn học cách mạng
thì chỉ có chiến thắng và niềm vui. Đã từng có một thời người ta sẵn sàng “ném
đá” những tác phẩm nghệ thuật đi vào lòng người, vì cho rằng viết ra những lời
lẽ như thế là biểu hiện sự bi lụy của bản thân và gieo rắc bi lụy cho người
khác! Nỗi buồn giống như một rặng núi hiểm trở. Người ta nhìn thấy nó trước mặt
thì dừng lại và đi vòng ngả khác, không mấy ai “ngoan cố” dấn mình vào đường
núi chênh vênh. Có thể nỗi buồn cũng giống như một đám khói mù. Người ta nghĩ
mình sẽ bị ngạt khi đi vào trong đó. Ngạt thở và không còn nhìn thấy gì hết ở
chung quanh. Thế nên tốt nhất là tránh đi, là khỏa lấp. Đó là cách ứng xử trái
ngược với người Nhật – một dân tộc phát hiện nỗi buồn từ những dấu hiệu tinh tế
nhất và luôn luôn chọn cách đi xuyên thấu nỗi buồn. Vì thế họ biết rằng tận
cùng nỗi buồn là cái đẹp.
Nhưng dù sao, thái
độ “dừng lại” trước nỗi buồn của Và khi
tro bụi vẫn là một thái độ chân thành, tuy là sự chân thành yếu ớt. Gần
đây, tôi tình cờ đọc được những bài viết thuộc thể loại nghiên cứu, thì mới thấy
số phận của Và khi tro bụi trong cuộc
giao lưu với độc giả cũng bi kịch không kém câu chuyện buồn mà tác phẩm mang
theo.
Một số tác giả
bài viết đại khái cho rằng Và khi tro bụi
mang trong lòng nó một câu chuyện trinh thám. Đúng là trong truyện có một vụ án
mạng, và có người lần theo vết tích để tìm gặp những nhân vật trong vụ án mạng
đó. Điều quan trọng là tâm thức của nhân vật lần theo dấu vết kia. Cô không có
ý thức rõ rệt về chuyện tìm kiếm đó. Cô chỉ bị trượt vào câu chuyện mà cô tình
cờ đọc được trong quyển sổ, như người ta trượt vào một vũng sương mù. Thoạt
tiên, câu chuyện làm cho cô bị sốc. Nhưng không phải sốc vì nhận thức rằng có một
tội ác cần phải làm sáng tỏ. Cô chỉ cảm thấy đó là một câu chuyện nặng nề, nặng
đến mức cô không đủ sức mà mang nó, nên cần phải nhanh chóng trả lại cho người
đã viết nó vào trong cuốn số được trao lại cho cô. Tuy nhiên, vì không tìm lại
được người viết câu chuyện ấy, và cũng không đủ can đảm mà vứt bỏ quyển số, cô
cứ từng bước một trượt vào trong câu chuyện mà không có kế hoạch, mục tiêu nào
được xác định rõ ràng cho những việc cô làm.
Truyện trinh
thám là hành trình giải mã để làm lộ diện kẻ phạm tội. Còn câu chuyện trong Và khi tro bụi thì khác hẳn. Nội dung được
kể trong quyển sổ đã ghi rõ kẻ phạm tội là ai. Nhưng An Mi không muốn tin điều
đó. Cô thấy cách lập luận của câu chuyện được viết ra là quá ư lỏng lẻo. Cô chỉ
thấy nặng nề vì một cậu bé mười ba tuổi, dẫu vì lý do gì đi nữa, đã phải ôm
trong lòng một câu chuyện thế kia. Và rồi khi biết được toàn bộ sự thật từ người
đàn ông đã giết chết vợ mình, An Mi đã không làm gì khác ngoài việc thu dọn những
mảnh vỡ của cuộc đời ông ấy. Trước đó, cô thậm chí không muốn nghe câu chuyện
mà ông Kempf muốn nói ra lúc cuối đời như hành vi xưng tội, và từ chối với lý
do là cô chẳng biết phải làm gì với nó, tuy chính cô nói rằng cô muốn biết sự
thật về bi kịch trong gia đình ông.
Điều quan trọng
không phải là xếp một câu chuyện, một tác phẩm vào loại này hay loại khác bằng
cách gán bừa cho nó một cái khung. Tác phẩm cần nhất là được hiểu. Một cái
khung giúp cho người ta hiểu đúng, hiểu sâu tác phẩm là điều tốt, còn ngược lại
thì nên thận trọng. Nếu một người chưa từng đọc Và khi tro bụi mà bị dẫn dắt bởi cái từ “trinh thám” thì sẽ hình
dung về tác phẩm ra sao? Nói rằng một ngôi nhà nào đó làm bằng gỗ thì liệu có
giúp cho người khác biết về những buồn vui đã làm nên sự tồn tại của nhà ấy hay
không? Nếu nói theo kiểu đó thì Và khi
tro bụi còn có cả truyện ma trong truyện trinh thám nữa!
Kinh khủng nhất
là một bài viết sử dụng lý thuyết phân tâm học để phân tích tác phẩm. Lý thuyết
của Freud vốn là một đóng góp quan trọng của một ngành nghiên cứu, giúp người
ta có thể tự hiểu mình nhiều hơn. Vấn đề là cách thức người ta sử dụng nó. Tác
giả bài viết (xin phép không nêu tên) cho rằng nhân vật An Mi, cũng giống như
tác giả tiểu thuyết là Đoàn Minh Phượng, mang mặc cảm văn hóa, mặc cảm dân tộc
vì là người Việt Nam lưu vong ở nước ngoài. Chuyện đó đúng hay sai thì tôi
không thể biết. Tôi chỉ thấy tác giả bài viết không hề có lập luận chặt chẽ mà
chỉ dùng lý thuyết phân tâm học như một cái khung để ấn vào tác phẩm và phán bừa
nhiều chỗ theo suy diễn cá nhân. Chẳng hạn tác giả có viết rằng: “Đoàn Minh Phượng
rời Việt Nam qua định cư tại Đức khi chưa đầy hai mươi tuổi, sống trong lòng xã
hội tư bản mà ở đó sự minh bạch, phân công đều rõ ràng, lạnh lùng, vô cảm, cộng
với sự cách biệt về ngôn ngữ, ứng xử tạo một vách ngăn và mặc cảm văn hóa sâu nặng
trong tâm thức của con người xa xứ.” Tác giả không dẫn nguồn tư liệu, nên tôi
không biết nội dung trong câu trên có phải là nội dung mà nhà văn Đoàn Minh Phượng
tự nói về bản thân hay không. Không biết bằng cách nào tác giả biết được nội dung
đó. Mà bản thân nội dung được diễn đạt trong câu cũng rất có vấn đề, chẳng hạn
tôi không hiểu “sự minh bạch, phân công đều rõ ràng, lạnh lùng, vô cảm” có ý
nghĩa ra sao. Và sự “phân công rõ ràng” trong “xã hội tư bản” thì có gì không
đúng, hay không tốt? Phải chăng tác giả muốn nói rằng người ta nên sống trong một
xã hội không phải là tư bản và không có sự phân công rõ ràng?
Đến khi tác giả
có dẫn nguồn tư liệu cho lập luận của mình thì mọi chuyện lại càng thêm kỳ quặc.
“Gắn mình vào guồng quay của cuộc sinh tồn khó nhọc nơi đất khách, chị nhận ra ‘mình
lạc lõng và luôn có cảm giác mình không tồn tại trên mặt đất. Như thể mình bị cắt
rời khỏi phần máu thịt của mình’(Và khi tro bụi bay về. Truy cập từ http://antgct.cand.com.vn/Nhan-vat).
Thế nên, chị tìm cách quay về sau gần hai mươi năm lưu lạc, dẫu hành trình trở
lại bản xứ cũng thật chật vật, khó khăn.” Tôi đã tìm bài viết ở đường dẫn ghi
trên để đọc. Một bài viết trên trang báo điện tử. Cái câu mà tác giả bài nghiên
cứu trích dẫn nằm trong một đoạn như thế này: “Phải mất hai năm
chị mới xin được visa vào Việt Nam.
Đó là những ngày khủng khiếp. ‘Tôi
thấy mình lạc lõng và luôn có cảm giác như mình không tồn tại trên mặt đất. Như
thể mình bị cắt rời khỏi phần máu thịt của mình’. Thế nên, Phượng đã tìm cách trở về,
dù biết là gian khó...” Bài
báo cũng không nói nội dung ghi trong ngoặc đến từ đâu, là lời nhà văn đã trực
tiếp phát biểu trong trường hợp nào. Nhưng đọc trong mạch văn của bài báo, tôi
hiểu rằng cái cảm giác “khủng khiếp” hay “lạc lõng” gắn với chuyện xin visa vào
Việt Nam, chứ không phải vì một sự va chạm, hay là sự thất bại nào đó khiến nhà
văn mặc cảm khi sống ở xứ người. Điều đó không khó hiểu, vì va chạm hay thất bại
dù xảy ra ở quê hương mình hay ở nơi nào khác cũng là chuyện thường thấy trong
một đời người, nhưng bị cái nơi mình vẫn xem là quê hương lạnh lùng hay chối bỏ
thì mới là lạc lõng thật sự. Đằng này, tác giả bài nghiên cứu nói trên lại viết
theo hướng khẳng định rằng cảm giác “lạc lõng” là do nhà văn “gắn mình vào guồng
quay của cuộc sinh tồn khó nhọc nơi đất khách”, không biết là do cách hiểu về
bài báo, hay là do tùy tiện khi muốn minh họa cho ý kiến rất chủ quan của riêng
mình?
Tôi cũng không
hiểu cụm từ “mặc cảm văn hóa” được tác giả bài viết sử dụng với ý nghĩa thế
nào, và vì sao “mặc cảm văn hóa” lại làm cho An Mi trở thành “con người không
có quê hương”, thành “khách lạ” ở những nơi mà cô đã đến. Thông thường, người
ta có mặc cảm khi biết rõ mình thuộc về cái gì, còn nhân vật An Mi thì ngược lại.
“Mặc cảm” thường khiến cho người ta che giấu đi những điều vốn cần được biểu hiện,
hoặc thay thế điều đó bằng một điều gì khác. Còn nhân vật An Mi thì rất tự
nhiên mà làm theo tập quán ở quê hương đã chừng như mất hút trong trí nhớ của
cô. Khi nhớ ra rằng “ở nơi tôi sinh ra, màu trắng là màu tang chứ không phải
đen”, cô đã mặc bộ áo dài trắng đến dự tang lễ chồng ở nhà thờ. Tác giả bài
nghiên cứu đã sử dụng lý thuyết phân tâm học để gọi đó là “hành vi sai lạc”, và
đưa ra dẫn chứng: “Lúc tôi bước vào nhà nguyện, mọi người nhìn tôi rồi vội quay
đi, như tế nhị tránh nhìn một điều sai sót lớn lao. Tôi nghĩ đừng bắt tôi làm
khác, tôi chỉ có một lần này trong đời để mặc chiếc áo trắng dành cho anh.” Và
sau đoạn trích dẫn, tác giả lại viết rằng “Hành động của An Mi đã phạm phải một
điều cấm kỵ lớn lao đối với gia đình chồng, với nền văn hóa bản địa.” Tôi đọc lại
thật kỹ tác phẩm mà vẫn không tìm thấy chỗ nào nói thế. Nói về chuyện cấm kỵ ở
Đức và việc phạm lỗi của An Mi, dù là qua phát ngôn của nhân vật nào đó thuộc “gia
đình chồng” hay đại diện cho “văn hóa bản địa”. Tôi cảm nhận rằng hành động “quay
đi” của mọi người khi An Mi bước vào nhà nguyện là biểu hiện ái ngại trước nỗi
đau quá lớn của người khác. Họ thấy An Mi đang hành xử rất lạ, nhưng họ biết
cái lạ đó là do sự tang thương khủng khiếp trong thế giới của cô. Cái gì khác với
những điều mà cộng đồng xung quanh thấy quen thuộc, thông thường không nhất thiết
là “sai lạc”, là phạm lỗi. Tác giả Và khi
tro bụi không viết một câu nào về thái độ đánh giá của gia đình người chồng
đã khuất đối với cách hành xử, hay tính cách vốn có, của An Mi.
Tác giả bài
nghiên cứu nói trên còn nói đến “mặc cảm Oedipe” và lấy nhân vật Marcus làm trường
hợp minh chứng: “Cậu bé Marcus trong vô thức cũng đã có một sự thù địch, căm
ghét bố. (...) Cho nên, khi chứng kiến cái chết của mẹ - người Marcus rất mực
yêu thương dưới tay của bố, nỗi căm hờn càng nhân lên gấp bội.” Tôi không rõ “mặc
cảm Oedipe”, trên thực tế, có thể khiến cho một người con trai ghét bố đến mức
nào. Nhưng lẽ nào cảnh tượng bố mình giết mẹ mình bằng một con dao chưa đủ gây
ra chấn thương tâm lý, làm hoảng loạn một đứa bé năm tuổi, bất kể đứa bé ấy là
trai hay gái? Giá như “mặc cảm Oedipe” được nói đến trong “mối quan hệ tam giác”
của ông Kempf, cô Sophie và Michael thì còn có vẻ dễ hiểu hơn. Ngoài ra, tác giả
bài viết còn nhầm lẫn hai nhân vật Michael và Marcus – một sự nhầm lẫn thật khó
tin đối với một người làm học thuật!
Nói chung, tác
giả bài viết không làm việc cần làm, là cố gắng chiêm nghiệm những con chữ để
mà hiểu tác phẩm, mà ngược lại đã phân tích tác phẩm theo kiểu “gọt chân cho vừa
giày”, trong khi phân tâm học vốn không phải là loại giày mềm mại dễ đi.
Tôi viết những
dòng này không phải chỉ vì một bài nghiên cứu kém chất lượng. Tôi thấy buồn vì ở
đất nước mình, người ta đọc văn chương không phải bằng tâm hồn, bằng tinh thần
chia sẻ với con người và khát khao hiểu biết về thế giới, mà bằng những cái
khung để mà áp đặt và phán xét. Một thời, những cái khung ấy toàn là những quan
điểm chính trị kiểu ai cao ai thấp, ai thắng ai thua. Gần đây thì, ít nhất là
trong giới chuyên môn, đã xuất hiện những cái khung lý luận phê bình. Sáng tác
văn chương và lý luận phê bình đều có những cái hay. Nhưng để gắn cái này vào
cái kia thì không được quên rằng, lý luận phê bình “chạy theo” sáng tác chứ
không phải ngược lại. Sáng tác bật ra từ những tâm hồn nhạy cảm, có chiều sâu,
trong sự “va chạm” với cuộc đời đa tạp và rộng lớn. Tiểu thuyết là một cuộc
hành trình bất tận tìm kiếm và thể hiện sự đa dạng, lắt léo tinh vi của cuộc đời.
Vì thế nó cũng là một thế giới đa dạng và cũng đầy ẩn khuất. Tìm hiểu thế giới ấy
là một điều vất vả, vì vậy mà mới sinh ra ngành lý luận phê bình. Cho nên, sử dụng
lý thuyết để tìm hiểu tác phẩm thì không có gì sai, nhưng phải nhớ cái gốc là
tác phẩm chứ không là lý thuyết. Có nhiều người chưa từng biết một lý thuyết
nào, họ đọc tác phẩm và họ thấy cảm động, thế thôi. Biết nhiều hơn để chia sẻ với
câu chuyện nhiều hơn, sâu hơn thì càng tốt, nhưng không nên vì nhu cầu “mổ xẻ”
mà đưa tác phẩm vào những cái khung lệch lạc.
Ở Việt Nam, khi
trình bày luận văn luận án trong lĩnh vực nghiên cứu văn học, người viết bị hỏi
rằng bạn dùng lý thuyết nào để nghiên cứu tác phẩm. Có những hội đồng chấm luận
văn cao học, chủ tịch hội đồng và học viên bảo vệ luận văn cãi nhau về một lý
thuyết mà cả hai đều không hiểu, vì lý thuyết này được tuyên bố là công cụ để
tìm hiểu tác phẩm là đề tài nghiên cứu của luận văn!
Tôi biết ít nhất
là học giả Nhật Bản không hề làm như vậy. Họ được học và tự đọc về rất nhiều lý
thuyết, cũng như nhiều tác phẩm. Nhưng bài nghiên cứu thì chỉ là phát hiện
riêng của họ về tác phẩm mà thôi. Phát hiện có thể liên quan đến một lý thuyết
nào đó, nhưng người viết không hề xem tác phẩm là bằng chứng minh họa cho cái
lý thuyết kia. Điều quan trọng là người viết phải nhìn ra, phát hiện ra sự thú
vị nào đó trong tác phẩm bằng cách đọc của mình. Dĩ nhiên “cách đọc” đó bao gồm
cả nền tảng tri thức. Phát hiện ấy khi được trình bày bằng cách lập luận chặt
chẽ và dễ hiểu thì sẽ trở thành một bài nghiên cứu có thể chia sẻ với mọi người.
Đành rằng hiểu bất
cứ cái gì cũng không phải là điều đơn giản. Đành rằng người ta luôn cần có công
cụ và cần sự trợ giúp cho những việc khó khăn. Nhưng việc hình thành và duy trì
cả một truyền thống nghiên cứu văn chương theo kiểu “gọt chân cho vừa giày” như
vậy thì thật là kinh khủng!
Bài viết này tạm
thời dừng lại ở đây. Tôi cũng muốn viết về sự thú vị của Và khi tro bụi, nhưng chắc là để sang dịp khác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét