(Đây là nội dung được dịch từ một cuốn sách về lý luận văn học, nhưng không may bị thất lạc bản gốc nên người dịch không nhớ rõ tên tác giả và tựa sách. Chân thành xin lỗi quý độc giả!)
1.
NHỮNG
KHỞI ĐIỂM
Vị trí của lý luận văn học trong ngành
nghiên cứu đối tượng vẫn thường được gọi là “tiếng Anh” trong những năm gần đây
ngày càng trở nên quan trọng. Cách đây không lâu- thật ra là khi tôi đang học một
khóa về “Anh ngữ và văn học” vào đầu thập niên 1970- thì lý luận văn học chưa
xuất hiện ở bất cứ đâu như một môn học trong chương trình. Có một môn lựa chọn
về lịch sử phê bình văn học, chủ đề mà chúng ta sẽ gặp trong một phần khác, và
bộ môn lịch sử tiếng Anh từ thời Anglo- Saxon và thời trung cổ đến thế kỷ XX được
quan tâm khá nhiều, nhưng ít ai quan tâm đến vấn đề xây dựng nền tảng hay mở ra
con đường cho sinh viên đọc và nghiên cứu văn học. Người ta không quan tâm lắm
về khái niệm “tiếng Anh” hay “văn học” bao gồm những gì, về vấn đề một bộ môn
hay một ngành nghiên cứu được hình thành như thế nào, và bộ môn lý luận văn học
hoạt động ra sao với tư cách là một phương pháp lĩnh hội tác phẩm. Và để đơn giản
hóa tối đa hoạt động “đọc tiếng Anh”, nhiều sinh viên đọc các “tác phẩm” của
các “tác giả” thuộc những “thời kỳ” nhất định, và chúng có vẻ là những thể loại
khá rõ ràng. Đã có những cuộc tranh cãi lành mạnh về diễn giải, thường xoay
quanh chuyện “đặc điểm”, trước khi việc bàn luận khép lại với một ý nghĩa cụ thể
và – được hy vọng ở thời điểm đó- là rõ ràng.
Vì nhiều lý do, giáo viên và sinh viên
ngành văn học dạo gần đây nhìn những hoạt động, loại thể và những giá trị mà nó
hàm chứa theo một kiểu khác. Ngày nay nhiều môn học bao gồm nghiên cứu tác phẩm
văn học đặt ra những câu hỏi và vấn đề về lý luận văn học, những điều mà trước
đây bị bỏ qua hoặc được xem là những cảm nhận rõ ràng hay thông thường, và, vì
vậy, là những khái niệm hay ý tưởng không thể bàn cãi. Lý luận văn học ngày
càng trở nên quan trọng trong các chương trình đào tạo của nhiều tổ chức từ thập
niên 1980, và ngày nay có lẽ không có sinh viên nào học về văn học Anh mà không
tham gia trực tiếp vào những khía cạnh nào đó của lý luận văn học và- có thể
nói- kiến thức thực tiễn về những lĩnh vực cơ bản là rất cần thiết cho một khóa
học hay một chương trình đào tạo tương đương. Nội dung này có thể được xem như
một bộ môn: là trọng điểm hay phần được lựa chọn của chương trình đào tạo.
Tuy nhiên, có lẽ điều quan trọng hơn là
môn lý luận đang trở thành môn học bắt buộc hiển nhiên trong nhiều chương trình
có khuynh hướng truyền thống trong việc lựa chọn giáo trình văn học để giảng dạy
như: thể loại (tiểu thuyết, thơ hay kịch); giai đoạn (thế kỷ, thập kỷ hay các
tiêu chí khác); trào lưu (lãng mạn hay hiện đại); tác giả (chọn các tác giả “vĩ
đại”, hoặc đôi khi không thực sự vĩ đại). Trong trường hợp sau thì tiêu chuẩn
cho việc sắp xếp và lựa chọn giáo trình văn học- cũng như cho những tài liệu
thuộc loại “tiếng Anh” hay “văn học”- không còn bị lơ là như trước. Chúng ta có
thể nói rằng cũng giống như những trải nghiệm trong việc đọc sách thay đổi khi
chúng ta trưởng thành, khi chúng ta đọc với một nhận thức mới, rằng câu chuyện
được tạo ra hay được xây dựng bằng nhiều cách khác nhau với những thủ pháp và
nghệ thuật nhất định, chúng ta không còn là người đọc “ngây thơ” nữa. Tương tự,
nghiên cứu văn học đã thay đổi từ tình thế nhìn nhận văn học như là một hiện tượng
“tự nhiên” được mặc định sang cách tiếp cận nhiều nghi vấn hơn và đã đặt câu hỏi
cho nhiều khía cạnh mà trước đây được xem như là điều hiển nhiên, tự nhiên và
rõ ràng.
Lý luận văn học được tiếp nhận ở Anh với
nhiều thái độ khác nhau. Trong thập niên 1970 lý luận văn học châu Âu, hay chủ
nghĩa lý thuyết, ngày càng trở nên nổi bật: thật ra có thể nói đôi khi những
nhà lý luận văn học được ca ngợi nhiều hơn những gì họ đóng góp, và bây giờ vẫn
còn chiếm một vị trí quan trọng. Có nhiều cuộc tranh cãi gay gắt trên các tờ
báo, tạp chí hay trong các cơ quan học thuật dẫn đến sự phân cực giữa một bên
là những tư tưởng chính thống mới- thường được nhấn mạnh là có nguồn gốc từ nước
ngoài- gắn bó thành một nhóm với tên gọi thống nhất là “lý luận”, với một bên
là những quan điểm thiên về truyền thống được đặc trưng bởi những tên gọi như
chủ nghĩa nhân văn, khuynh hướng chung hay khuynh hướng truyền thống. Dĩ nhiên
là những nhóm phản đối mạnh mẽ trong nghiên cứu tiếng Anh đã tồn tại trước khi
có sự xâm nhập của lý luận văn học, và vẫn còn cho đến ngày nay. Cụm từ “khủng
hoảng trong nghiên cứu Anh ngữ” khá phổ biến vào đầu thập niên 1980, và cũng cần
chú ý rằng trong thời gian này có một số bộ môn học thuật mới đã xuất hiện ở
các cơ sở giáo dục đại học, chẳng hạn như Văn hóa học, Truyền thông học, điều
đó, bằng nhiều cách khác nhau, đã tạo ra thách thức đối với cả nội dung và
phương pháp của bộ môn tiếng Anh truyền thống đồng thời phá vỡ sự độc quyền ngự
trị trên đời sống văn học trong thế giới học thuật. Sự ảnh hưởng của lý luận
văn học từ thập niên 1980 mạnh mẽ đến mức không thể có chuyện một nhà phê bình
văn học ngày nay có thể chấp bút mà không có kiến thức về lý luận văn học. Và
tương tự, có lẽ một sinh viên ngành văn học khó mà không biết đến những quan niệm
đã ảnh hưởng đến cách thức đọc tác phẩm văn học và ngày càng trở nên gắn bó hữu
cơ với những diễn ngôn chủ đạo của phê bình văn học.
Có thể có ý kiến cho rằng sẽ nguy hiểm nếu
chúng ta quá chú trọng đến lý luận văn học, và hiện nay khi “thời đại” của lý
luận trong khoảng thời gian từ đầu đến giữa thập niên 1980 đã trôi qua, nghiên
cứu văn học có thể trở lại tập trung vào những vấn đề quen thuộc hơn. Cũng có
thể có ý kiến cho rằng lý luận văn học đã trở thành một bộ phận hữu cơ của
nghiên cứu văn học vì trong văn hóa phương Tây có các dạng văn học nói, văn học
trình diễn, văn học viết và đọc, dù không hẳn là luôn luôn nổi bật trong thời
gian gần đây. Cả hai cách nhìn nhận như trên đều có lý, nhưng tôi cho rằng sự
xuất hiện của lý luận văn học châu Âu vào thế kỷ XX và sự hợp nhất có phần muộn
màng của nó vào bộ môn nghiên cứu văn học Anh đã góp phần đáng kể vào việc thay
đổi sự hình dung của chúng ta về khái niệm “văn học Anh”- nếu thực tế chúng ta
vẫn có thể nhắc đến tên gọi của bộ môn đó một cách tự tin. Những đóng góp buổi
đầu về lý luận văn học, kể từ Aristotle trở đi, cần được ghi nhận và điều đó rất
quan trọng để nhận ra rằng ở bất cứ nơi nào có đời sống văn học thì nơi đó thường
xuất hiện những diễn ngôn phê bình có liên quan. Tuy nhiên, bài viết mang tính
giới thiệu này chủ yếu tập trung vào những lý thuyết của thế kỷ XX và ảnh hưởng
của chúng đến cách thức đọc, nghiên cứu và thưởng thức văn học.
Cuốn sách này được viết để giới thiệu một
vài khía cạnh của lý luận văn học, và tôi cố gắng giới thiệu những tài liệu có
thể tham khảo đối với những ai muốn theo đuổi những nghiên cứu sâu hơn theo một
hướng nào đó. Tôi cũng cố gắng kết nối ở mức độ có thể những quan điểm gắn với
phê bình văn học truyền thống và những quan điểm nảy ra từ lý luận văn học có
thể được xem là sự nghi ngờ hay là sự thay đổi chúng. Như tôi sẽ trình bày, có
thể là sai lầm khi khẳng định rằng lý luận văn học mang lại những cách thức quá
đơn giản để phân tích hay, nói cách khác, đó chỉ là một cách đọc mới. Cũng sẽ
không ổn nếu xem lý luận văn học như một tập hợp các công cụ phụ trợ hay là một
kiểu cơ chế cứng nhắc để nghiên cứu văn học. Cách tiếp cận lý luận văn học sai
lầm nhất là tách rời nó khỏi các hoạt động đọc và phê bình. Để đi đến kết luận
đó, tôi đã cố gắng ở mức độ có thể và trong quy mô giới hạn của cuốn sách để
đưa ra những ví dụ về lý luận trong thực tế ở các chương tiếp theo nhằm phản
ánh sự tương tác giữa lý luận và tác phẩm. Lý luận văn học là một lĩnh vực phức
tạp và hay thay đổi, khác với những lý thuyết phê bình chính thống trước đây,
và được đặc trưng bởi sự khác biệt hơn là sự đồng nhất.
2.
LÝ
LUẬN VĂN HỌC LÀ GÌ?
Văn
học và lý luận văn học
Để nhận diện lĩnh vực được gọi là lý luận văn học, có thể cho rằng bản
thân văn học là một hiện tượng được định nghĩa rõ ràng. Rõ ràng là từ “văn học”
thường được sử dụng theo cách để người ta có thể hiểu đó là một khái niệm minh
bạch. Chẳng hạn như thư viện có hệ thống phân loại các tác phẩm văn học phân biệt
chúng với các loại sách khác một cách rõ ràng. Báo và tạp chí đăng tải những
bài điểm sách viết về các tiểu thuyết và thơ trong những trang mục riêng biệt.
Các trường đại học và cao đẳng vẫn có một số lượng sinh viên nhất định chọn học
môn văn học, và nhiều ví dụ khác nữa. Tuy nhiên, nếu chúng ta xem xét cách thức
mà các tổ chức đó xây dựng những văn bản được gọi là “văn học” hay “tiếng Anh”,
chắc chắn chúng ta sẽ nhận thấy những điểm khác biệt, cả sự khác biệt rõ rệt giữa
những tổ chức học thuật và đại chúng và sự khác biệt trong nội bộ lĩnh vực học
thuật. Sự khác biệt này đa dạng tùy theo bối cảnh sử dụng của khái niệm “văn học”,
vì vậy rõ ràng chúng ta có thể hy vọng sẽ thấy sự khác nhau giữa nhóm sách văn
học trong các ki-ốt ở nhà ga và các giáo trình trong một chương trình giảng dạy
về văn học thế kỷ XX- và lý do dẫn đến sự khác biệt này là một vấn đề thú vị mà
chúng ta sẽ trở lại sau. Sự khác biệt này thể hiện không chỉ trên bình diện văn
hóa mà cả trên bình diện lịch sử: khái niệm văn học thường được định nghĩa bằng
nhiều cách khác hẳn nhau trong khoảng hơn một thế kỷ gần đây. Thậm chí trong những
bối cảnh có vẻ là phổ biến, từ các giáo trình chung đến những tài liệu giảng dạy
ở các khóa đào tạo trong các cơ sở học thuật, có rất nhiều khái niệm văn học
khác nhau và nhiều ý kiến bất đồng về các yếu tố tạo nên một tác phẩm đáng được
nghiên cứu trong giáo trình. Nhiều tổ chức đã tìm kiếm một dạng văn học riêng
và gán cho nó những chân lý và giá trị có vẻ phổ quát, và việc nghiên cứu văn học
với tựa đề “tiếng Anh” từ cuối thế kỷ XIX là sự thể hiện rõ một trong những phương
pháp chủ yếu mà đời sống học thuật của tiếng Anh (English chứ không phải British)
đã tìm ra để thống nhất và xác lập ngành nghiên cứu văn học.
Hiệp hội Anh ngữ, được thành lập năm
1907, là tổ chức chính đã nỗ lực đẩy mạnh nghiên cứu đời sống văn học tiếng Anh
trong các cơ quan giáo dục, phát triển khái niệm văn hóa gắn liền với sự tiến bộ
về đạo đức mà Matthew Arnold đã đưa ra lần đầu trong thế kỷ XIX. Quan điểm của
Arnold về văn hóa như là “những gì tốt đẹp nhất được nghĩ đến và biết đến trên
thế giới” được sử dụng rộng rãi trong suốt kỷ nguyên văn học: trong nghiên cứu
về thơ ca cổ điển, rồi tiếp theo là thơ ca cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.
Nhiều tác phẩm trong nền thơ ca này thấm đẫm ngôn từ giả cổ điển và mang hình
thức văn chương kết hợp với những huyền thoại đồng quê của một nước anh quê mùa
muôn thuở. Bài thơ “The Old Vicarage Granchester” (Nhà xứ cũ ở Granchester)
(1912) của Rupert Brooke là điển hình của loại thơ ca thể hiện “tinh thần Anh
ngữ” đó. Một số nhà phê bình cho rằng việc nghiên cứu văn học và những tổ chức
văn hóa về “tiếng Anh” đã trở thành cái thay thế cho hình thức tôn giáo đã được
xác lập và nhanh chóng trở nên suy yếu trong giai đoạn này. Văn học có thể đem
đến một kiểu trải nghiệm tương tự, và cùng với sự mở rộng quyền bầu cử cũng như
tình trạng phổ cập văn hóa, việc nhà nước quan tâm đến những giá trị văn minh
thích hợp cũng trở nên quan trọng. Sau khi thành lập Hiệp hội Anh ngữ, chính phủ
đã báo cáo về Việc dạy tiếng Anh ở nước
Anh (1921) với sự chủ trì của nhà thơ Anh tài hoa Henry Newbolt (nổi tiếng
với câu “Hãy chơi hết mình! Chơi hết mình! Và chơi cho đẹp!”) đã củng cố vị trí
chủ chốt của tiếng Anh trong chương trình giáo dục[1].
Thay vì xem văn học như là một thể thống
nhất được tạo thành từ những tác phẩm có những đặc trưng giống nhau và được những
độc giả giống nhau đọc cùng một kiểu, chúng ta có thể xem nó như một lĩnh vực thường
xuyên thay đổi. Như đã thể hiện trong thuật ngữ, “văn học” hay “văn chương”
không có nghĩa ổn định và đơn nhất mà có nhiều nghĩa phức tạp. Hơn nữa, “văn học”,
gồm cả phần văn bản được viết ra và tổng thể những giá trị thẩm mỹ đạo đức kết
tinh trong đó, có thể được xem như một trận chiến mà ở đó những ý nghĩa bị tranh
đấu chứ không phải là cái sở hữu những chân lý và giá trị phổ quát, bền vững
như đã được trình bày trong một số trường hợp.
Lý
luận văn học, hay là những lý thuyết, đã đưa ra nhiều cách định nghĩa về văn học, hay ít nhất
là cách suy nghĩ về những trường hợp khả thi trong nỗ lực tìm kiếm một kiểu định
nghĩa. Chúng không nhất thiết phải tương thích với nhau, và những nhà bình luận
về công trình lý luận văn học trong thời gian gần đây ngày càng chú ý hơn đến
những quan điểm khác biệt và nhiều lúc xung đột nhau thể hiện trong những luận
điểm lý thuyết khác nhau. Lý luận văn học với tư cách là một lĩnh vực tri thức
không đề xuất hay đưa ra những nội dung dễ hiểu và chặt chẽ để xác định nội hàm
khái niệm văn học, hoặc về vấn đề nên nghiên cứu văn học như thế nào. Tuy
nhiên, điều đó không có nghĩa là nó vô giá trị.
Hai quan niệm nền tảng có liên quan đến
nghiên cứu văn học xuất phát từ lý luận văn học không phải luôn là sự tiếp cận
phi lý thuyết. Thứ nhất, như tôi đã đề cập ở phần tổng quan trên đây, văn học
trở thành một lĩnh vực phức tạp hàm chứa nhiều vấn đề: chúng ta có thể nói về “các
kiểu tiếng Anh” hơn là “tiếng Anh” khi tìm hiểu về cách thức mà ngôn ngữ này thể
hiện trên bình diện lịch sử và văn hóa dưới dạng một văn bản hay một tri thức. Thứ
hai, những hoạt động gắn liền với nghiên cứu văn học, từ đọc tác phẩm cho đến
phê bình, cần được quan tâm rà soát thường xuyên.
Chúng ta có thể xem diễn ngôn của lý luận
văn học như một thứ vũ khí hai lưỡi: một mặt nó có thể giải thích hay làm rõ một
số giả định và giá trị ẩn chứa trong văn học và phê bình văn học, nhưng mặt
khác chúng ta cũng không nên xem những “chân lý” trong những công trình lý luận
là tuyệt đối. Có lẽ lối tiếp cận thận trọng này và việc không ngừng rà soát
trong đánh giá những thuật ngữ, thẩm định những giá trị mà nó chuyển tải là một
trong những đặc điểm phổ quát hơn của lý luận văn học: nó hướng đến sự tự nhận
thức, tự phản ánh, điều mà phê bình văn học truyền thống không nói đến, và sự tự
nhận thức này tập trung chủ yếu quanh vấn đề ngôn ngữ- thứ ngôn ngữ của tác phẩm
được nghiên cứu và ngôn ngữ diễn đạt trong tác phẩm khi nó được đọc và được cảm
thụ.
Phê
bình văn học và lý luận văn học
Phê bình văn học đã tự xác lập vị thế
như một hoạt động chủ yếu gắn liền với nghiên cứu hàn lâm về văn học, và những
khái niệm hay phạm trù của nó cần được khảo sát cặn kẽ. Chúng ta đã quen dùng
những khái niệm “tác giả”, “nhân vật”, “người đọc” như những khái niệm rõ ràng,
hiển nhiên và như thể chúng hàm chứa những khía cạnh của văn học và nghiên cứu văn
học. Tương tự như thế, chúng ta không nên xem những phạm trù trong cách tiếp cận
lý thuyết là tuyệt đối đúng.
Có lẽ ở điểm này chúng ta nên phân biệt
những hoạt động hay thực tiễn trong phê
bình văn học và lý luận văn học
như là những phạm trù dễ bị nhầm lẫn. Nói chung, chúng ta có thể khẳng định rằng
phê bình văn học bao gồm việc đọc,
phân tích và bình luận về một tác phẩm cụ thể hay về những tác phẩm được xem là
văn học. Đây có vẻ là hoạt động chủ yếu gắn liền với nghiên cứu văn học: được
thực hiện bởi những nhà phê bình chuyên nghiệp và được lưu hành dưới dạng những
ấn phẩm như sách và tạp chí, và nó cũng được thực hiện bởi các sinh viên ngành
văn học dưới dạng những tiểu luận, bài thi hay luận văn, luận án. Sự nổi trội của
“tiếng Anh” trong thế kỷ vừa qua bao hàm cả sự theo đuổi phê bình văn học như một
hoạt động chủ yếu của nó. Thuật ngữ “phê bình” bắt đầu gây chú ý đáng kể khi gắn
với “tiếng Anh” từ cuối thế kỷ XIX và tiếp tục được sử dụng rộng rãi trong thế
kỷ XX. Nhà thơ cũng là nhà phê bình văn hóa thế kỷ XIX Matthew Arnold bắt đầu sử
dụng thuật ngữ “phê bình” với ý nghĩa riêng được nhấn mạnh, chẳng hạn như trong
bài viết “Chức năng của phê bình trong thời hiện đại” (1867). Thuật ngữ “phê
bình thực tế” được giới thiệu bởi nhà phê bình văn học thế kỷ XX I. A. Richards
và việc ứng dụng thuật ngữ này vào giảng dạy cũng như đánh giá, là những ví dụ cho
thấy nó trở thành đặc trưng quan trọng nhất trong nghiên cứu tiếng Anh. Những
nhà phê bình nổi bật, ví dụ như F. R. Leavis, được xem là những nhà thực tế nổi
bật trong phê bình; trường hợp không đáng chú ý lắm là tác giả sáng tác văn học
cũng tham gia viết phê bình văn học, chẳng hạn như Henry James hay T. S. Eliot.
Mặc dù phê bình là một thuật ngữ có nội hàm rất rộng bao gồm nhiều cách tiếp
cận và nhiều thái độ về văn học, có hai quy tắc hay giả định thường gắn với thực
tế phê bình trong cả hoạt động và diễn ngôn phê bình. Thứ nhất, phê bình phải đứng
sau văn học: phê bình có vị trí thấp hơn bản thân tác phẩm văn học. Thứ hai, những
đánh giá và phân tích phê bình có khuynh hướng thừa nhận rằng tác phẩm mà họ
đang nói đến là đương nhiên là tác phẩm văn học: là loại văn học tự nhiên, rõ
ràng và do đó những quan điểm phê bình xuất phát từ tác phẩm cũng rất sáng tỏ
(có thể xem phần giải thích về ý này ở chương 4, mục “Hệ tư tưởng”).
Tuy nhiên, một vài cách tiếp cận văn học
và phê bình văn học phát triển qua các công trình lý luận có thể đưa ra những
cách nhìn khác. Trước hết, những kiểu quy trình, phương pháp, giá trị ẩn chứa
trong những giả định trên cần được làm rõ: khi chúng ta dùng từ “văn học” và
khi chúng ta phân tích một cách chi tiết các khía cạnh của từ này, và để chúng
ta có thể đánh giá tốt, xấu hay như thế nào đó thì chúng ta cần hiểu bản thân
những hoạt động này có chức năng gì và vì sao lại có những đánh giá như vậy.
Phê bình văn học có thể được xem là những phương tiện xây dựng nên văn bản và
những tri thức có vẻ như là đối tượng nghiên cứu của nó, chứ không phải là cái
thứ yếu so với văn học; nói cách khác, văn học có thể được xem là sản phẩm và phụ
thuộc vào phê bình hơn là ngược lại. Chắc chắn có trường hợp trong thảo luận
thì phê bình tất yếu đứng sau tác phẩm mà nó đánh giá về mặt niên đại, nhưng điều
đó không có nghĩa rằng phê bình phụ thuộc vào văn học theo kiểu nó chỉ có chức
năng duy nhất là bình luận về tác phẩm văn học theo cách phản ánh nội dung của
tác phẩm đó. Thay vào đó, có thể nói rằng bản thân tác phẩm xuất hiện từ cuối
thế kỷ XIX trở đi được các nhà phê bình từ Matthew Arnold đến F. R. Leavis công
nhận là “văn học” và cả việc nhận diện những phẩm chất và đặc điểm “văn chương”
như “giọng điệu”, “nhân vật”, “quan điểm đạo đức” …v..v. chủ yếu được tạo ra
thông qua những diễn ngôn phê bình văn học chứ không có sẵn trong tác phẩm. Nói
cách khác, sẽ không có văn học nếu chúng ta tách phê bình văn học ra khỏi khái
niệm này.
Quan điểm cho rằng văn học có được sự tồn
tại hay ý nghĩa cơ bản nhờ phê bình là quan điểm mà Matthew Arnold ủng hộ trong
quan niệm về “tính vô tư” của nhà phê bình do ông đề xướng; ông khẳng định, phê
bình phải “nhìn đối tượng như nó vốn là”. Quan điểm như thế này về nhà phê bình
vô tư không thiên kiến, hay là nhân vật trung lập, xem xét tác phẩm văn học một
cách khách quan, là một trong những đặc trưng chủ yếu gắn với phê bình văn học
như là một hoạt động chính, và cũng là điều mà sinh viên ngành văn học cần đạt
được. Quan điểm xem văn học như là “kinh nghiệm”, là một hiện tượng cá nhân và
chủ quan trong đó cảm xúc đóng vai trò quan trọng tỏ ra hơi bất ổn; như D. H.
Lawrence khẳng định: “một nhà phê bình phải nhạy cảm trong từng tế bào”[2].
Có vẻ như phê bình văn học không mấy khó khăn trong việc dung hòa những quan niệm
đối lập như vậy. Tuy nhiên, một số nhà lý luận văn học, như tôi đã nhắc đến ở
phần trên, có khuynh hướng nhìn nhận “văn học”, “văn chương” và mối quan hệ của
phê bình văn học với những lĩnh vực này theo một cách khác. Như sẽ đi vào chi
tiết ở phần sau, họ nhận thấy sự cần thiết phải khẳng định văn học là gì, phải
nhận diện những khía cạnh lịch sử, văn hóa, hình thức và ngôn ngữ cho phép
chúng ta nói về “văn học” một cách cụ thể hơn. Hơn nữa, lý luận văn học nhận ra
rằng những giả định mà phê bình đặt ra về tác giả, người đọc và mối quan hệ của
chúng với cái mà chúng ta xem là “sự thật” cần được tìm hiểu, xác định lại và
quá trình này có thể làm thay đổi cách thức mà chúng ta đọc và cảm thụ tác phẩm.
Có lẽ ở đây chúng ta cần phân biệt rõ lý luận văn học và phê bình văn học. Nếu chúng ta nói rằng phê bình bao gồm việc đọc, phân tích, giải thích và bình giảng những
tác phẩm thuộc về văn chương, thì lý luận
văn học phải đảm nhận hai việc. Nó phải cung cấp cho chúng ta một hệ thống
chuẩn mực để nhận diện văn học khi tiếp xúc lần đầu tiên và sự hiểu biết về những
chuẩn mực này là bằng chứng của phê bình thực tế (một vài ý trong phần này sẽ
được xem xét trong phần thảo luận về những lý thuyết “ngôn ngữ” ở chương 3, và
trong mục “Hệ tư tưởng” ở chương 4). Nó cũng giúp chúng ta biết được phương
pháp và quy trình mà chúng ta sử dụng trong thực tế phê bình văn học để chúng
ta không chỉ khảo sát tác phẩm mà còn biết cách đọc và phân tích tác phẩm. Nói
đúng hơn, chúng ta phải phân biệt rõ ràng hơn giữa “lý thuyết văn học” và “lý
luận phê bình”, trong đó lý luận văn học chủ yếu quan tâm vấn đề “văn học” hay
“văn chương” là gì, trong khi lý thuyết phê bình chú trọng đến bản chất của phê
bình và thực tế hoạt động phê bình. Hai khía cạnh này thường được gộp chung vào
thành phạm trù “lý luận văn học”, và trên thực tế một số nhà lý luận thường bàn
về lý thuyết phê bình hơn là lý luận văn học, điều đó thể hiện sự linh hoạt,
hay là tính mơ hồ của thuật ngữ, thường gây khó khăn trong nghiên cứu văn học. Mặc
dù vậy, rõ ràng là hai lĩnh vực lý thuyết này không loại trừ nhau, có nghĩa là
lý luận văn học và lý thuyết phê bình không hoàn toàn tách biệt, và trên thực tế
chúng làm rõ lẫn nhau và có mối liên hệ nội tại với nhau. Sơ đồ dưới đây gợi ý
cho chúng ta cách định hình mối quan hệ giữa văn học, lý luận văn học và phê
bình văn học:
Sơ đồ này không thể hiện một mô hình
hoàn chỉnh của tiến trình văn học và phê bình: còn nhiều yếu tố chưa được nói đến,
đặc biệt là tác giả và người đọc, thường được xem là những yếu tố cơ bản để
nghiên cứu văn học. Có lẽ về điểm này chúng ta nên lưu ý rằng một số hướng tiếp
cận lý thuyết không quan tâm lắm đến quan niệm truyền thống về vị trí của tác
giả, và không xem tác giả như một khởi điểm hiển nhiên khi nghĩ về văn học với
tư cách là một văn bản hay là một tác phẩm mang tính cá nhân.
Văn
học và kinh nghiệm
Một trong những khó khăn lớn nhất khi liên
hệ việc đọc và cảm thụ với những luận điểm lý thuyết, đó là việc chúng ta hiểu
một bài thơ, một tiểu thuyết hay một vở kịch tất yếu bị quy định bởi những kinh nghiệm của chúng ta về nó, và còn bị
quy định bởi những kinh nghiệm của chúng ta trước đó về văn học lẫn phi văn học.
Tuy nhiên, kinh nghiệm có thể là rất đa dạng, và là một thuật ngữ có thể hàm chứa
nhiều ý đối lập nhau: ví dụ, theo nghĩa thông thường thì kinh nghiệm về ngôn ngữ
nghĩa là thế giới hay “thực tế” tồn tại độc lập với ngôn ngữ và chúng ta có thể
dùng ngôn ngữ để phản ánh thế giới. Mặc dù những lý thuyết về ngôn ngữ cho thấy
rằng mối quan hệ giả định này thật ra không phải như thế mà phức tạp hơn và có
thể thách thức những kinh nghiệm thông thường của chúng ta (điều này sẽ được
trình bày kỹ hơn trong chương 3 ở mục “Ngôn ngữ”).
Nghiên cứu văn học đã gắn bó chặt chẽ với
lĩnh vực kinh nghiệm và những thuật ngữ liên quan như “cảm giác” và “cảm xúc”. Như
vậy, nghiên cứu văn học thường được đặt ở vị trí đối lập với khoa học và khoa học
xã hội ở cách hiểu về những nội dung học thuật, đặc biệt là trong các cơ quan ở
Anh. Người ta nhận thấy lý thuyết có chỗ đứng trong việc nghiên cứu một bộ môn
như vật lý hay hóa học và cũng được xem xét một cách rõ ràng trong xã hội học
hay triết học. Tuy nhiên, khi đến với những bộ môn thường được xem là thuộc về
nghệ thuật hay nhân văn, lý thuyết thường bị xem là phần phụ hay thậm chí là
không cần đến. Nghiên cứu sử học không nhất thiết phải bao gồm việc nghiên cứu
lý thuyết sử học một cách rõ ràng, và như tôi đã đề cập, việc nghiên cứu tiếng
Anh hay văn học ở Anh đã phản ứng gay gắt với những luận điểm và cách tiếp cận
lý thuyết. F. R. Leavis phân biệt tương đối rõ phê bình văn học với những nội
dung và phương pháp của xã hội học hay triết học; ông cảm thấy rằng “chỉ có sự
cọ xát văn chương được rèn luyện” là trọng tâm của nghiên cứu văn học, trong đó
người ta có thể đạt được sự hiểu biết đầy đủ về “những kinh nghiệm về con người
cụ thể”[3].
Đặc biệt, khái niệm cảm giác và cảm xúc tạo thành phần cốt lõi của các trục
kinh nghiệm trong nghiên cứu văn học, thường là trong khuynh hướng “phê bình thực
tế”, khi mà độc giả có thể thưởng thức với những kinh nghiệm hàm chứa trong tác
phẩm hoặc với trải nghiệm của nhà văn được gửi vào tác phẩm. Nhưng chính xác là
cảm giác và cảm xúc của ai, đó là câu hỏi thường không được nêu ra; dường như
văn học tạo ra một hình thức kinh nghiệm siêu việt và phổ quát mà bình luận văn
học có thể khám phá- gần như bằng trực giác trong một số trường hợp.
Tuy nhiên, lĩnh vực kinh nghiệm mà cảm
giác có thể đáp ứng được trở nên ngày càng bất ổn khi yêu cầu về lý thuyết được
mở rộng hơn, đặt ra những vấn đề về bản chất và căn nguyên của kinh nghiệm như
một hình thức của hiểu biết và tri nhận. Vấn đề trọng tâm mà một số luận điểm
lý thuyết nêu ra là: trong kiểu phê bình này thì chúng ta nói về kinh nghiệm của
ai? Kinh nghiệm là chủ quan, tương đối và đa dạng theo cá nhân và lịch sử;
trong trường hợp văn học thì nó sinh ra từ ngôn ngữ, vốn là một thực thể phức tạp
hơn, mặc dù một số nhà phê bình của trường phái kinh nghiệm bỏ qua ngôn ngữ hoặc
xem nó chỉ là khía cạnh thứ yếu, là phương tiện cho kinh nghiệm. Những khía cạnh
đa dạng và bất ổn của kinh nghiệm thường bị che lấp đi trong thực tiễn phê bình.
Thay vì thể hiện bản chất, phong phú, đa dạng của việc cảm thụ, nhấn mạnh tầm
quan trọng của bối cảnh ở phía độc giả về các phương diện lịch sử, giới tính và
thành phần xã hội, và mối quan hệ hợp lý giữa độc giả với tác phẩm văn học, kiểu
phê bình này thường tập trung vào việc hình thành nên một chân lý chung và phổ
quát quen thuộc đối với tất cả mọi người và có vẻ như được công nhận bởi kinh
nghiệm cá nhân được chia sẻ. Kinh nghiệm cá nhân được bày tỏ thường xuyên hơn là
không chú trọng đến những sự khác biệt trong độc giả; trên thực tế thì ngôn ngữ
của nhiều bài phê bình giả định rằng mọi độc giả đều được xem là nam giới, thường
có chung một hệ thống các giá trị văn hóa và có chung một khung cảm thụ.
Kinh nghiệm với tư cách là một tiêu chuẩn
phê bình cần phải được xem xét cẩn thận. Nó có thể làm mờ đi quá trình mà các ý
nghĩa hiển lộ và dẫn đến sự chấp nhận các giá trị hay “chân lý” là những bộ phận
của một bối cảnh văn hóa rộng lớn, hơn là những giá trị của tác phẩm đang được
phân tích. Mặt khác, kinh nghiệm và lý thuyết không cần được đặt ở vị trí đối lập
nhau: thay vì phủ nhận kinh nghiệm đọc, lý thuyết cần nâng cao và giải phóng
nó. Như sẽ bàn, với việc xem xét một vài quy tắc và giả định trong những phương
thức phê bình truyền thống, lý luận văn học có thể mang lại một sự hiểu biết đầy
đủ hơn và sâu sắc hơn về tác phẩm văn học và các kiểu kinh nghiệm sinh ra từ
chúng.
Truyền
thống văn học
Liên quan đến kinh nghiệm, quan điểm về
truyền thống có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình xây dựng bộ môn hay
chuyên đề trong tiếng Anh cũng như đối với thực tế phê bình. Nếu “phê bình” trở
thành một trong những từ khóa cho những hướng tiếp cận văn học vào cuối thế kỷ
XIX gắn liền với những khái niệm về văn hóa, đạo đức và văn minh, thì một trong
những từ khóa đầu thế kỷ XX là “truyền thống” đã mang lại cho văn học và phê
bình văn học một sự chuyển điệu riêng và một hệ thống các giá trị. Một bài viết
ngắn nhưng có sức tác động của T. S. Eliot có tựa đề “Truyền thống và năng lực
cá nhân” (1919) cho rằng văn học hàm chứa những giá trị và phẩm cách vĩnh cửu
có thể xem là một loại di sản văn hóa:
Cảm
thức lịch sử bao gồm một sự thấu hiểu, không chỉ về những gì diễn ra trong quá
khứ, mà là sự hiện diện của quá khứ; cảm thức về lịch sử buộc con người phải viết
không chỉ với những gì mình vốn có, mà với một cảm nhận rằng toàn bộ nền văn học
châu Âu từ thời Homer và trong đó có cả nền văn học của đất nước mình tồn tại
cùng lúc và tạo ra những trật tự đồng thời. Cảm thức lịch sử này, cảm thức về
thời gian và vĩnh cửu, là cái tạo nên tính truyền thống ở nhà văn[4].
Cảm thức về một “truyền thống” đơn lập,
đồng nhất trở thành tâm điểm của cách đánh giá văn học. Ở thời điểm ông viết The Waste Land (Đất bỏ hoang) (1922),
trên bề mặt của một tác phẩm văn học mang tính thử nghiệm và còn dang dở, Eliot
cũng thể hiện rằng, văn học và nghiên cứu văn học về cơ bản bao gồm cảm thức về
sự đồng nhất và giá trị vượt qua một khoảnh khắc lịch sử cụ thể. Thật ra thì
quan điểm chủ trương tách lịch sử ra khỏi văn học, kể cả trong quá khứ và hiện
tại, trong bất kỳ cảm nhận thực tế nào, và thay vào đó cổ vũ cho sự chú trọng
vào một dạng lịch sử tinh thần dựa trên cảm nhận trực giác về những kinh nghiệm
nhân loại được chia sẻ gần giống quan điểm của F. R. Leavis về vai trò của phê
bình văn học. Quan niệm này được củng cố thêm với hai luận điểm: văn học là một
hoạt động phi cá nhân trong đó kinh nghiệm của cá nhân nhà văn hay độc giả có
vai trò thứ yếu và được bổ sung bởi cảm thức về một kinh nghiệm rộng lớn hơn là
truyền thống, và ít nhất từ giữa thế kỷ XVII trở đi có sự phân tách giữa kinh
nghiệm và ngôn ngữ.
Thay vì trình bày quan điểm bằng những diễn
giải lý thuyết hợp lý, Eliot có thể được xem là đại diện cho cái gọi là cách tiếp
cận văn học siêu hình. Dùng từ “siêu hình”, tôi nuốn nói rằng ông ta đã giả định
một cách chắc chắn rằng văn học- hay một kiểu nhất định của văn học- là một nơi
chứa đựng những chân lý và giá trị tuyệt đối không cần giải thích lại và không
thể bị nghi ngờ. “Kinh nghiệm” và “truyền thống” chưa bao giờ được định nghĩa một
cách chính xác, ngay cả khi sự “chính xác” được hiểu là mô tả hoạt động của
“phê bình thực tế”, là một kiểu đọc cận văn bản tác phẩm văn học được ủng hộ mạnh
mẽ từ thập niên 1920 trở đi.
Phê bình thực tế vốn là một cách đọc được
đề xướng bởi I. A. Richards là một người kế tục Eliot. Richards trong nỗ lực
đưa phê bình văn học trở thành một kiểu cơ sở khoa học hợp lý bằng cách đề xướng
một phương pháp đọc: điều quan trọng là Richards và một nhà phê bình quan trọng
trong giai đoạn đầu là William Empson đến với học thuật từ nền tảng khoa học
hàn lâm, và trên một số phương diện nào đó đã cố gắng đưa phê bình văn học trở
thành một lĩnh vực lý tính hơn. Tuy nhiên, những thể loại phê bình chủ yếu mà
Richards chủ trương trong cuốn sách của ông có tựa đề Phê bình thực tế: một nghiên cứu về thẩm định văn học (1929) như “cảm
xúc”, “giọng điệu”, “cảm giác”, “ý định” có vẻ là những khái niệm không mang
tính khoa học, đặc biệt khi được xem xét dưới ánh sáng của lý luận văn học và
phê bình trong giai đoạn gần đây. Tương tự, F. R. Leavis chủ trương một phương
pháp đọc gọi là “cận văn bản”, có vẻ như là nguyên tắc trung tâm của phê bình
thực tế như ông đã định ra. Tuy nhiên, nếu chúng ta nhìn vào những đánh giá và
kết luận của Eliot và Leavis, thì thấy rằng chúng gần như không phải là sản phẩm
của lối phân tích cận văn bản theo đúng nghĩa của nó. Có thể giả định rằng những
phương pháp đó rất quan tâm đến ngôn ngữ và cấu trúc văn bản, nhưng hơn thế, sự
đánh giá của họ thường bị tác động bởi những quan niệm và giá trị nằm bên ngoài
văn bản và có liên quan đến những vấn đề đã được khái quát hóa của kinh nghiệm
và truyền thống. Phê bình tác phẩm Đất bỏ
hoang trong tập Những điểm mới trong
thơ ca Anh (1932), Leavis khẳng định rằng tác phẩm thể hiện “một trí tuệ đầy
sức sống đương thời”, nhưng khi đọc thì ông nhấn mạnh cảm xúc của bài thơ về sự
mất mát và đứt gãy của di sản văn hóa và văn học trước đó. Những gì là đương thời
đã bị hạ bệ trong thơ và bị Leavis bỏ qua hầu hết. Khi Leavis nói về trạng thái
đầy sức sống trong ngôn ngữ hay là “kinh nghiệm về con người cụ thể”, điều đó
giống như là phép ẩn dụ của ông đang cố gắng củng cố một hướng tiếp cận phê
bình phi duy vật hết sức quan trọng nhưng không gắn bó với văn bản về ngôn ngữ
hay lịch sử.
Eliot, Leavis và những nhà phê bình khác
tập hợp một loạt những tác phẩm văn học hình thành nên một bộ kinh điển, tức là
một tập hợp các tác phẩm được tuyển chọn và nâng lên tầm kinh điển tạo thành trụ
cột của văn hóa hay truyền thống văn học. Vấn đề đặc tiêu chuẩn cho việc kinh
điển hóa như thế nào thì chưa bao giờ được làm rõ, nhưng chắc chắn bộ sưu tập
tác phẩm này tạo thành tâm điểm của hoạt động nghiên cứu Anh ngữ từ đầu thế kỷ
XX. Việc những tác giả nào đó có được dành cho vị trí này hay không thì vẫn là
đề tài tranh luận qua nhiều năm. Trong cuốn Truyền
thống vĩ đại (1948), Leavis thoạt tiên cho rằng Dickens còn thiếu sự hoàn hảo
cần thiết để trở nên thật sự vĩ đại, ngoại trừ tác phẩm Hard Times (Những lúc khó khăn) (1854), trong đó có viết: “bậc
thiên tài sáng tạo đặc biệt… điều phối mọi thứ cho một ý nghĩa có tổ chức và thống
nhất”, nhưng về sau ông nghĩ lại và xếp Dickens vào hàng ngũ các bậc thánh văn
chương bên cạnh những tên tuổi vĩ đại hiển nhiên theo cách nhìn của ông như
Jane Austen và George Eliot. Tuy vậy, điều rõ ràng là những tác giả và tác phẩm
được tuyển chọn như thế đã bị gán cho những giá trị mơ hồ trở, là những giá trị
trở lại với T. S. Eliot và Matthew Arnold; và trong khi tranh luận về sự vĩ đại
tương đối của Milton hay Shelley, người ta đã bỏ qua rất nhiều tác phẩm. Văn học
đại chúng không được xem là văn chương dưới bất cứ hình thức nào, thực ra nó được
xem như là mối đe dọa cho văn học kinh điển và những giá trị đạo đức gắn liền với
nó. Leavis xem văn học đại chúng như là một kiểu ô nhiễm văn hóa và khẳng định
giá trị của văn hóa cao cấp trong một cuốn sách nhỏ xuất bản năm 1930 có tựa đề
“Văn minh đại trà và văn hóa thiểu số”; những quan điểm tương tự củng cố cho tạp
chí Scrutiny mà Leavis thành lập năm
1932 và đã hoạt động cho đến khi bị cho thuê lại vào năm 1953.
Tóm lại, vị trí phê bình được Leavis khẳng
định và trở lại với Matthew Arnold không được lý thuyết hóa, ít ra là trong cảm
nhận của lý luận văn học thời gian gần đây. Thật ra quan niệm cho rằng phê bình
bằng mọi cách phải mang tính lý thuyết đã bị Leavis phản đối kịch liệt, như ông
đã làm rõ trong một bài luận có tựa đề “Phê bình văn học và triết học” in trong
cuốn Theo đuổi chung (1952). Trong
bài viết này, Leavis khẳng định rằng phê bình văn học không có gì giống với triết
học, và rằng bất cứ “hệ thống lý thuyết” nào cũng đều xa lạ với nó. Định nghĩa
của ông về nhà phê bình và thực tiễn phê bình văn học có dùng những từ thể hiện
quan điểm “đời sống/ kinh nghiệm” của văn học:
Thông
qua nhà phê bình thơ tôi hiểu về độc giả hoàn hảo: nhà phê bình lý tưởng là độc
giả lý tưởng. Yêu cầu về việc đọc thơ ca khác hẳn với yêu cầu của việc đọc triết
học… Ngôn ngữ trong thơ không kêu gọi chúng ta “suy tưởng” hay đánh giá mà mời
gọi chúng ta “cảm nhận” hay “thay đổi”… Mục tiêu của nhà phê bình trước hết là
nhận ra, với sự nhạy cảm và một cách hoàn hảo nhất có thể, cái này hay cái kia
thu hút sự chú ý của họ… Khi đã thuần thục trong vấn đề trải nghiệm cái mới,
anh ta sẽ đặt câu hỏi, một cách trực tiếp hay ẩn ý: “Điều này từ đâu đến? Nó tồn
tại như thế nào trong mối liên hệ với…? Nó tương đối quan trọng như thế nào?” Và
cái cấu trúc mà nó được đặt vào với tư cách là một thành tố được “lắp đặt” là một
cấu trúc gồm những yếu tố được “lắp đặt” giống nhau, những yếu tố đã tìm thấy sự
thể hiện của chúng trong liên hệ tương quan, và không phải là một hệ thống lý
thuyết được định hình bởi những suy nghĩ trừu tượng[5].
Ở đây Leavis có thể được xem như một người
cố gắng định hình một kiểu phê bình gần với kiểu mà hiện nay chúng ta nghĩ đến
như là phương pháp lý thuyết, cho dù có vẻ như ông phản đối hướng tiếp cận đó.
Mặt khác thì ngôn ngữ của ông, và ít nhất là có một luận điểm, hết sức trừu tượng
và mơ hồ: thật mỉa mai, đó chính là điều mà Leavis tỏ ra phản bác trong lý luận
và triết học. Những nhà lý luận văn học như Terry Eagleton[6]
đặt câu hỏi về quan điểm của Leavis, cho rằng ông không làm rõ quá trình mà ông
đánh giá tác phẩm văn học, và hơn nữa kiểu phê bình mà ông thực hiện có thể dẫn
đến sự khó hiểu: bởi vì, thay vì nêu ra và làm rõ những cách thức mà người ta
đánh giá, và tác phẩm văn học “đặt” trong một trật tự nhất định, thì những điều
này lại bị cản trở. Hiệu quả của việc làm này là làm cho những giá trị văn hóa,
lịch sử của phê bình có vẻ “tự nhiên” bằng cách che giấu hay ngụy trang. Kiểu
“kinh nghiệm” mà Leavis nói đến ở đây có vẻ như không được định nghĩa, và là xa
vời chứ không phải là một phần kinh nghiệm của hầu hết người đọc; có thể đoán rằng
đây là kết quả của việc đọc những tác phẩm văn học cụ thể kết hợp với sự nhạy cảm
đặc biệt cho phép chúng ta hiểu tác phẩm và đánh giá chúng bằng trực giác. Mặt
khác, khi khẳng định rằng “cảm xúc”, “đời sống” và “kinh nghiệm” là trọng tâm của
phê bình văn học, Leavis và những người đi trước dường như đã đem văn học đến gần
người đọc hơn những trường hợp tiếp cận lý thuyết; có điều gì đó dễ tiếp cận và
đồng cảm về loại ngôn ngữ kinh nghiệm đó. Tuy nhiên, ngôn ngữ ấy cản trở chính
những nội dung mà nó muốn nhận diện và làm rõ: “cảm xúc”, “đời sống” và “kinh
nghiệm” được sử dụng theo những cách chung chung và trừu tượng đã bỏ qua việc định
rõ sự sáng tạo và tiếp nhận văn học, và hàm ý rằng có một cách đọc phổ quát, đồng
nhất và vĩnh viễn mà tất cả chúng ta cuối cùng cũng sẽ đạt được, hay ít nhất là
nhận ra một cách mơ hồ, là cách đã minh họa cho truyền thống bằng một tập hợp
văn học kinh điển có quy mô lớn hơn. Cách phê bình đó chỉ cho phép người đọc nhận
ra những ý tưởng và giá trị nhất định trong khi loại trừ hoặc hạ thấp vai trò
những yếu tố khác.
Câu hỏi về “nhận biết”, về vấn đề chúng
ta làm thế nào để hiểu hoặc biết rằng một điều gì đó là tốt, xấu, đúng hay sai,
là một vấn đề quan trọng sẽ được xem xét trong chương 4 ở mục “Hệ tư tưởng”. Sự
quan tâm của Leavis về việc “định vị” tác phẩm cũng sẽ được bàn kỹ ở chương 5 ở
mục “Những mối liên hệ văn bản”, trong đó sẽ nói những cách thức cảm thụ và
cách mà những ý nghĩa xuất hiện và hoạt động. Trong phần còn lại của chương I
này tôi muốn quay lại với một số giả định và quy tắc trung tâm của văn học và
phê bình văn học, và tìm xem lý luận văn học cho chúng ta kỳ vọng những gì về
lĩnh vực này. Trong một vài trường hợp, như với khái niệm “tác giả”, những yếu
tố này có vẻ cực đoan và kích thích, nhưng nếu chúng nghi ngờ những quan niệm
thông thường của chúng ta thì điều đó không hẳn là không tốt, vì sẽ giúp chúng
ta làm rõ hơn lập trường của mình trước bản thân và những người mà chúng ta thảo
luận hay trao đổi những ý tưởng về văn học. Năm 1957, trong một cuốn sách cố gắng
định nghĩa bản chất và chức năng của phê bình văn học có tựa đề Giải phẫu phê bình, Northrop Frye phàn
nàn về việc thiếu một lý thuyết mang tính hệ thống về văn học; ông cho rằng nếu
thiếu điều đó thì không thể viết ra một công trình nào về những nguyên tắc cơ bản.
Ông khẳng định: “một tôn giáo huyền bí mà không có kinh điển”. Tôi không muốn
nói rằng lý luận văn học là loại kinh điển mà Frye cho là đang thiếu- và một số
nhà lý luận cũng chia sẻ quan điểm này- hiện nay có những quan niệm đang tồn tại
giúp làm rõ những thành tố của văn học và phê bình văn học. Và có lẽ một trong
những điều mà lý luận văn học nói với chúng ta, đó là bản thân kinh điển chính
là những tác phẩm được phân tích: tri thức và chân lý là tương đối trên bình diện
lịch sử- điều mà những tổ chức về văn học và phê bình văn học không phải lúc
nào cũng thừa nhận, có lẽ bởi vì điều đó chống lại quyền lợi của họ.
Sáng
tạo và tiếp nhận văn học
Tôi quyết định tập trung phần còn lại của
chương này xung quanh hai khái niệm có liên quan đến các phạm trù mà tôi đã nói
đến trước đây: “sáng tạo” và “tiếp nhận”. Thoạt tiên những thuật ngữ này thừa
nhận rằng văn học không phải là vĩnh cửu hay nằm trong bầu không khí phi lịch sử
mà phụ thuộc vào hai bối cảnh: đó là bối cảnh mà nó được viết hay được sản
sinh, sáng tạo ra và bối cảnh nó được lưu hành, đọc và tiếp nhận sau đó. Tuy có
vẻ như đã được phân biệt rạch ròi nhưng sự khác nhau giữa hai bối cảnh thường
không rõ, vì vậy khi một bài thơ hay một tiểu thuyết được đọc hay cảm thụ, có khả
năng nhầm lẫn về việc chúng ta tìm thấy những ý nghĩa riêng biệt đối với một tập
hợp nhất định các mối quan hệ tạo nên bối cảnh đọc, hay là tìm ra những ý nghĩa
mà chúng ta giả định vẫn tồn tại từ lúc đầu và không thay đổi. Sự phân chia này
có thể trở nên phức tạp hơn nếu chúng ta nhận ra rằng ý nghĩa của một tác phẩm
văn học thay đổi theo thời gian; vì vậy chúng ta có thể khẳng định rằng một
khán giả trong thập niên 1990 hiểu vở kịch Hamlet
(1603) theo nghĩa rất khác so với một khán giả trong những năm đầu của thế kỷ
XVII. Chúng ta cần biết rằng chính những quan điểm của chúng ta về việc nó có
thể có ý nghĩa gì rồi sẽ trở thành một hoạt động phân tích hay tái tạo, và ý tưởng
tạo ra một loại ý nghĩa “gốc” là hết sức bất ổn và cần được cân nhắc.
Sự phân biệt giữa sáng tạo và tiếp nhận
là hữu ích nếu suy nghĩ đến sự thay đổi thái độ đối với việc đọc và cảm thụ văn
học trong lý luận và phê bình văn học. Điều này có thể được phản ánh trong lược
đồ dưới đây:
Lược đồ này thể hiện một cảm nhận chung,
và vì thế có vẻ là thái độ rõ ràng đối với văn học, đó là việc tác giả viết ra
tác phẩm và tác phẩm này được độc giả đón đọc; quá trình sáng tạo và chuyển
giao được giả định là từ tác giả đến người đọc, và những quan niệm hay ý nghĩa
phức tạp có vẻ như xuất phát từ tư duy của tác giả sau đó sẽ được phát triển qua
thơ ca, tiểu thuyết hay kịch để đến với người đọc. Và độc giả có thể lần theo
trục này quay trở lại để khám phá dụng ý của tác giả và trải nghiệm lại những
kinh nghiệm của tác giả. Sự khởi đầu và trọng điểm thông thường của kiểu đọc
này là tác giả, người trình bày nguồn gốc và căn nguyên của những ý nghĩa tham
gia vào một tác phẩm văn học được nhìn nhận trong nhiều hình thức của dụng ý và
kinh nghiệm.
Lược đồ trên còn có thể được dùng để phản
ánh một cách đơn giản những thay đổi, nhằm nhấn mạnh những điểm nổi bật trong
những hướng tiếp cận phê bình trong vòng 50 năm trở lại đây, và trong giai đoạn
sau được thể hiện bởi sự phát triển về lý luận văn học và lý thuyết phê bình. Hầu
hết hoạt động phê bình trước thập niên 1950, và thật ra còn nhiều bài phê bình
sau đó, có thể được mô tả như là kiểu phê bình “lấy tác giả làm trung tâm”,
nghĩa là tập trung vào tác giả theo đường thẳng của lược đồ về cách cảm nhận
chung được phác họa ở phần trên. Tuy nhiên, một số nhà phê bình bắt đầu đặt câu
hỏi với giả định này trong thập niên 1940 và 1950, cho rằng về cơ bản nên tập
trung chú ý vào văn bản hay tác phẩm văn học hơn là vào tác giả. Họ nói rằng sự
quan tâm chủ yếu của nhà phê bình là về ngôn ngữ và kiểu văn bản được đọc chứ
không phải về tác giả là người tạo ra nó. Trên thực tế, sự tiến bộ xuất phát từ
cách tiếp cận này khẳng định rằng ý nghĩa được tạo ra không phải bởi tác giả mà
thông qua ngôn ngữ của tác phẩm. Mới đây, một số nhà lý luận, những người đã giới
thiệu một lĩnh vực cụ thể của lý luận văn học thường được biết đến dưới tên gọi
“lý thuyết về độc giả” hay là “lý thuyết tiếp nhận”, đã tập trung không phải
vào tác giả hay tác phẩm mà vào người đọc như là yếu tố trung tâm trong quá
trình đọc và phê bình.
Tác
giả và quyền tác giả
Khái niệm tác giả giữ vai trò trung tâm
trong phê bình văn học và bộ môn Văn học Anh từ cuối thế kỷ XIX, khi chúng được
xem là những lĩnh vực tri thức. Phê bình và tiểu sử đôi khi không phân biệt với
nhau, vì vậy càng biết nhiều về cuộc đời tác giả thì bạn càng có thể hiểu rõ
hơn về văn chương của họ. Văn học được xem là không tách rời với người đã sáng
tạo ra nó; điều này được thể hiện rõ qua những cách tiếp cận nghiên cứu Shakespeare.
Chẳng hạn, A. D. Bradley giảng về “Con người Shakespeare” (1904) và cố gắng tạo
ra chân dung về một Shakespeare nhạy cảm, từ việc đọc những vở kịch của ông. Mặc
dù ông thừa nhận rằng “hiểu biết của chúng ta về tiểu sử Shakespeare rất khiêm
tốn”, điều đó không ngăn cản ông phỏng đoán những khía cạnh sâu kín trong tư tưởng
và tình cảm của Shakespeare, và mong muốn tìm hiểu “tính cách và thái độ đối với
cuộc sống của một người mà theo chúng ta đã hiểu rất rõ bản chất của con người
nói chung”[7].
Ba mươi lăm năm sau, chúng ta gặp một cách tiếp cận tương tự trong Cuộc đời và nghệ thuật của Shakespeare
(1939) của Peter Alexander, trong tác phẩm này ông đã đặt những vở kịch vào bản
tiểu sử có tác dụng củng cố cho ý kiến phê bình, bắt đầu bằng lý lịch học vấn của
Shakespeare. F. R. Leavis, trong bài châm biếm Swift được viết gần đây, công nhận
sự khác biệt giữa tiểu sử và phê bình văn học nhưng đồng thời lại tiếp tục gắn
kết chúng với nhau:
Tôi
muốn bàn về những tác phẩm của Swift- để xem chúng là cái gì: và chúng là (như
trong những bài phê bình hiện nay) một dạng rất khó thảo luận nếu không thay đổi
trọng tâm của việc bàn luận sang kiểu người của Swift… Trong nỗ lực trình bày về
điều gì đã làm cho những tác phẩm này đáng chú ý đến thế, thật sự rất cần phải
tìm hiểu con người đã viết ra chúng[8].
Trong khi vẫn tồn tại đôi điều tranh cãi
trong mối quan hệ giữa tác giả và tác phẩm vào cuối thập niên 1940 và đầu thập
niên 1950, riêng về dụng ý, như chúng ta sẽ thấy trong trích đoạn, nhiều thay đổi
quan trọng đã xảy ra từ thập niên 1960. Điều này đã thách thức những giả định
truyền thống xem tác giả là nguồn gốc tạo ra tác phẩm văn học, và đặt câu hỏi về
quyền tác giả đối với tác phẩm. Ví dụ dễ hiểu nhất về việc tranh luận này là
bài luận “Cái chết của tác giả” của Roland Barthes, xuất bản năm 1968. Trong
bài luận này, tác giả đã công kích cái mà chúng ta gọi là “sự ảo tưởng về tiểu
sử”:
Hình
ảnh của văn học tìm thấy trong văn hóa thông thường bị tập trung quá đáng về
tác giả, về con người, cuộc sống, sở thích, đam mê của anh ta, trong khi hầu hết
những bài phê bình vẫn nói rằng tác phẩm của Baudelaire là sự thất bại của con
người Bauudelaire, hay của Van Gogh là sự điên rồ, của Tchaikovsky là sự đồi bại.
Sự phân tích một tác phẩm luôn được tìm kiếm trong con người đã tạo ra nó, như
thể qua những phúng dụ hư cấu ít nhiều được thể hiện rõ ràng, thì tác phẩm chỉ
là tiếng nói của một người duy nhất, một tác giả “nhẹ dạ” trong mỗi chúng ta[9].
Barthes cho rằng “chính ngôn ngữ là chủ
thể phát ngôn chứ không phải tác giả”, và rằng chúng ta cần từ bỏ cách tiếp cận
lấy tác giả làm trung tâm nếu chúng ta nhận ra tổng thể các ý nghĩa hàm chứa
trong một tác phẩm văn học. Khi một tác phẩm được lưu hành, cái có thể gọi là
dây rốn nối tác giả và tác phẩm sẽ bị cắt và tác phẩm có một đời sống riêng. Barthes
cũng đặt ra những câu hỏi mà chúng ta sẽ xem qua về cá nhân tác giả trong quá
trình sáng tạo. Ông kết luận với nhận định rằng sự “đa dạng” về ý nghĩa tạo nên
một tác phẩm không tập trung ở tác giả, mà ở người đọc: “sự thống nhất của tác
phẩm không nằm ở căn nguyên mà nằm ở đích đến của nó”, và chúng ta cần phải gạt
bỏ đi những huyền thoại về tác giả: “cái chết của tác giả được trả giá để sinh
ra người đọc”. Từ “huyền thoại” của Barthes gần với “hệ tư tưởng” theo nghĩa là,
quan điểm truyền thống về tác giả đã ngăn chặn và kềm giữ những ý nghĩa ẩn chứa
trong tác phẩm văn học- huyền thoại về tác giả cũng có tác dụng như một kiểu quản
lý văn hóa. Tuy nhiên, chúng ta không nên quên rằng bản thân bài luận của
Barthes là một văn bản được viết ra vào một khoảnh khắc lịch sử cụ thể, và năm
1968 là thời gian nhiều thách thức đối với quyền lực được xác lập trong lĩnh vực
văn hóa- giáo dục; việc từ bỏ tác giả có một ý nghĩa đặc biệt trong bối cảnh
này vì những quan điểm trước đó đã đặt tác giả vào vị trí trung tâm của sáng tạo
văn học. Luận điểm của Barthes về sự chuyên chế của tác giả có thể được xác nhận
bằng ví dụ trong bài luận trước đây của tôi: nhiều nhà phê bình và nhà lý luận,
những người chủ ý tránh nói về vị trí của tác giả hay về những quan điểm trong
mối liên hệ với tác phẩm văn học dưới ánh sáng của những tư tưởng này, dường
như không quan tâm gì đến việc nói về các nhà lý luận và phê bình văn học với
tư cách là những tác giả- chẳng hạn như F. R. Leavis hay Roland Barthes. (Về từ
“tác phẩm” như một khái niệm dùng chung cho mọi hình thức văn bản- bất kể văn học
hay phi văn học- xem chương 5, “Những mối liên hệ văn bản”). Thật khó tránh những
quy tắc chung của một diễn ngôn đã hình thành bởi vì điều đó có nghĩa là chống
lại chính ngôn ngữ đã mang đến cho chúng ta những dạng tri thức nhất định, và tất
nhiên là mọi người vẫn nói đến tác giả khi bàn luận về văn học. Điều quan trọng
là hiểu được ý nghĩa của “tác giả” khi tiếp nhận khái niệm này, ngay cả khi
chúng ta không thể- hay không muốn- từ bỏ nó.
Một cách tiếp cận mang tính lịch sử hơn
về vấn đề tác giả được dẫn dắt bởi Michel Foucault trong bài luận có tựa đề
“Tác giả là ai?” (1969)[10].
Trong bài luận này tác giả được gắn với điều mà Foucault gọi là “sự cá thể hóa”
nổi lên trong văn hóa phương Tây; đó là vị trí trung tâm bị chiếm lĩnh bởi những
cá nhân có tên tuổi theo cách mà những kiểu tri thức được xác lập. Vì vậy, tác
giả có được diện mạo và vị thế từ nhiều loại tác phẩm lưu hành trong xã hội; họ
đưa ra những điểm công nhận, “một sự thống nhất cơ bản và vững chắc”. Foucault
gọi những cách mà tên tuổi của tác giả được dùng để chi phối sự lưu hành của
văn học là “chức năng tác giả” và cho rằng, đó thật sự là một cách để giới hạn
những kiểu đọc và những ý nghĩa gợi ra từ tác phẩm- giống với quan điểm của
Roland Barthes ở phần trên. Ông lý giải rằng vị trí của tác giả trong tác phẩm
văn học không quan trọng lắm trước thế kỷ XVII hay XVIII, khi dấu hiệu xác nhận
của cá nhân tác giả không cần thiết để công nhận “chân lý” hay quyền lực, và
tác phẩm được tiếp nhận trong trạng thái nặc danh. Với sự nổi lên của xã hội tư
sản và những điểm nhấn mới trong luật sở hữu và tài sản, cùng với sự phát triển
của tri thức khoa học như một cách giải thích về thế giới, tác phẩm văn học trở
nên quan trọng hơn với tư cách là sản phẩm và là sự thể hiện của cá nhân, và có
một vị thế khác.
Quan điểm của Foucault cho rằng chức
năng tác giả phục vụ cho một mục đích tư tưởng: nghĩa là, tác giả thường được
xem như là căn nguyên của năng lực sáng tạo, tưởng tượng nhưng lại hoạt động
theo một kiểu ngược lại. Việc dán nhãn cho tác phẩm theo tác giả có thể được
xem như một trở ngại cho việc lưu hành tri thức tự do, trong đó tác phẩm đã được
“đặt” vào một hệ thống cụ thể về tri thức và giá trị bởi những quan niệm và quy
tắc về tác giả và tiểu sử. Điều mà đối với Leavis là một câu hỏi đánh giá, kinh
nghiệm và trực giác trong việc hiểu và “định vị” tác phẩm văn học, thì đối với
Foucault là một quá trình của hệ tư tưởng được định trước trên quy mô lớn, có
chức năng duy trì tri thức và quyền lực một cách liên tục trong những lĩnh vực
quan trọng và riêng biệt của xã hội. Vì thế chức năng tác giả là một chiến lược
duy trì, đã đặt văn học và người đọc vào mối tương quan và không cho phép tự do
phản ứng, thường được gán cho những câu như “sự tưởng tượng của tác giả”. Luận
điểm cuối cùng của Foucault là, những điều vốn có ở tác giả không định sẵn một
tác phẩm văn học mà đi theo nó; đây là sự đảo ngược một khía cạnh của tiến
trình sáng tạo văn học và được xem là bình thường. Ý ông muốn nói rằng ý niệm
trong chúng ta về Shakespeare hay Wordsworth hình thành sau khi tác phẩm của họ
được phát hành rộng rãi, và một phần của việc cấu tạo và công nhận tác phẩm văn
học trong văn hóa của chúng ta được thực hiện thông qua việc xây dựng nên tư
cách của tác giả trong sự hồi tưởng về tác phẩm. Sự nổi lên vào cuối thế kỷ XIX
một loạt các tiểu sử của những nhà văn “vĩ đại”, chẳng hạn như bộ sách Những người Anh cầm bút bao gồm Samuel Johnson (1878), Alexander Pope (1880), Jonathan Swift (1882), George Eliot (1902) và Từ điển tiểu sử quốc gia, cả hai đều được
biên soạn bởi Leslie Stephen, là những ví dụ điển hình nổi lên song song với “tiếng
Anh” như một bộ môn và sự phát triển của những diễn ngôn phê bình văn học[11].
Rất có thể những lý lẽ của Barthes và
Foucault có vẻ cực đoan và khó chấp nhận, và tôi không muốn nói đó là những khẳng
định cuối cùng về vị trí của tác giả. Như bản thân Barthes và Foucault đã biết,
vị thế của tác giả tạo thành một lĩnh vực tranh luận và đã được gán cho nhiều ý
nghĩa trong lịch sử; điều này cũng cần được đưa vào lý lẽ của họ. Tuy nhiên, những
ý kiến của họ có tính gợi mở và đưa chúng ta đến với câu hỏi rằng, điều gì được
xem là những “chân lý” hiển nhiên trong văn học. Những bài luận đã tìm kiếm để
lý thuyết hóa và đưa “tác giả” thành vấn đề, để nó không còn là một phạm trù “tự
nhiên” hay giả định.
Chúng rôi sẽ trở lại với những cách hiểu
về tác giả trong chương 5, “Những mối liên hệ văn bản”.
Dụng
ý và ý nghĩa
Theo cách nhìn truyền thống về vị trí đứng
đầu của tác giả trong sáng tạo văn học, người ta thường nghĩ rằng một dụng ý của
tác giả là trung tâm cho bất cứ hành động phân tích nào ở phía người đọc. Câu hỏi
về dụng ý có thể được xem là một
trong những vấn đề xung quanh, và lý thuyết văn học hay lý luận phê bình bắt đầu
nghi ngờ những giả định đó, ít nhất là trong phạm vi ở Mỹ và ở Anh.
Khi I. A. Richards định hình những phạm
trù phê bình của ông trong cuốn Phê bình
thực tế trong nỗ lực xác lập việc đọc
thơ, mặc dù có vẻ như sự chú ý của người đọc được tập trung chủ yếu vào tác phẩm
dưới sự khảo sát kỹ lưỡng, thì sự tiếp cận cuối cùng vẫn tập trung vào dung ý của
tác giả. Quan điểm về việc hiểu hay xác lập một dụng ý của tác giả, và quan niệm
cho rằng điều đó giải thích một tác phẩm văn học, ngày càng trở nên bất ổn. Hầu
hết tác giả không đưa ra những lời tuyên bố về dụng ý; thực ra một số tác giả
đương thời như Samuel Beckett hay Harold Pinter đã cố ý tránh đưa ra những lời
khẳng định về tác phẩm của mình khi họ được phỏng vấn, như thể họ chẳng có quyền
hơn bất cứ ai khác để bình luận về chúng, và có vẻ như họ từ chối bất cứ trách
nhiệm nào về tác phẩm một khi chúng đã được lưu hành rộng rãi. Ngay cả trong
trường hợp mà chúng ta đã có được những khẳng định có vẻ rõ ràng về dụng ý, vẫn
có những vấn đề trong việc đọc và định vị tác phẩm một cách rạch ròi trong mối
liên hệ với tác giả. Một khẳng định như vậy xuất phát ở điểm nào: trước khi tác
phẩm được viết ra, trong quá trình sáng tác hay là trong sự hồi tưởng về tác phẩm?
Dụng ý của W. H. Auden về bài thơ “Spain” (Tây Ban Nha) (c.1937) rõ ràng đã
thay đổi khi ông quyết định bỏ bài này ra khỏi tuyển tập tác phẩm của ông về cuối
đời. Trong kỷ nguyên hậu Freud, khi mà sự chú ý về tầm quan trọng hay thậm chí
là vai trò quyết định của những khía cạnh vô thức trong tư duy của chúng ta được
chấp nhận- đặc biệt là trong mối liên hệ với mặt sáng tạo và tưởng tượng trong
suy nghĩ của chúng ta- làm sao có thể chắc chắn rằng một dụng ý công khai của
tác giả là thật hay là duy nhất? Ngay cả khi chúng ta xác lập một dụng ý, hay
tiêu chuẩn cho cái có thể tạo thành dụng ý, thì chúng đáng tin cậy đến mức nào?
Cách nhìn “dụng ý” như một phạm trù là tỏ ra đơn giản hóa quá trình phê bình bằng
cách buộc tác phẩm vào một điểm hay một khởi nguyên hiển nhiên, rõ ràng. Đó là
cách tiếp cận của những nhà bản chất luận, cho rằng cuối cùng vẫn có một ý
nghĩa đúng, chính xác được che giấu, đó là ý nghĩa mà rốt cuộc ai cũng có thể
tiếp cận. Đây là một cách tiện lợi để tổ chức tri thức, và cũng là một cách để
bảo đảm ý tưởng chắc chắn đó, và quan trọng hơn, là cách hiểu những ý tưởng đó
lâu dài.
Ở Mỹ vào cuối thập niên 1940 và đầu thập
niên 1950 nổi lên một trường phái phê bình văn học được biết đến với tên gọi là
“Phê bình mới”, gồm những người tự xưng là “Nhà Phê Bình Mới”. Cách tiếp cận văn học của họ là theo chủ nghĩa hình thức, hay đôi khi được gọi
là chủ nghĩa cấu trúc, nhưng không
nên nhầm lẫn với trào lưu nổi lên sau đó chủ yếu ở Pháp trong thập niên 1960
cũng được gọi là Chủ nghĩa cấu trúc,
mặc dù hai trường phái này có nhiều điểm giống nhau. Như được thể hiện trong
tên gọi, chủ nghĩa hình thức là một
cách tiếp cận phê bình quan tâm nhiều hơn về những tạo tác văn học và những
hình thức của nó thay vì người sáng tác hay bối cảnh lịch sử: ý nghĩa của một
tác phẩm ngày càng được xem là tồn tại trong tác phẩm hơn là trong tư tưởng tác
giả. “Kinh nghiệm” không hẳn là cái mà tác giả vốn có và đến với người đọc
thông qua ngôn ngữ, mà tự nó được đặt vào tác phẩm. Để thay đổi điểm nhấn từ
tác giả sang tác phẩm, nguyên tắc chính của cách tiếp cận phê bình này được đặt
trên một khái niệm nền tảng là “sự ảo tưởng về dụng ý”, cho rằng dụng ý của tác
giả (giả định rằng nó đã được xác lập) không nhất thiết là sự dẫn dắt đến ý
nghĩa của tác phẩm; “Sự ảo tưởng về dụng ý” (1946) là tựa đề bài luận của hai
Nhà Phê Bình Mới, W. K. Wimsatt và M. C. Beardsley, trong đó lý lẽ này được khẳng
định. Một trong những định nghĩa của khái niệm này được trình bày trong cuốn
sách Lý luận văn học (1949) của René
Wellek và Austin Warren:
Tuy
nhiên, toàn bộ quan niệm cho rằn,g “dụng ý” của tác giả là một chủ đề đúng đắn của
lịch sử văn học, là một sai lầm. Ý nghĩa của một tác phẩm nghệ thuật không được
khai thác hết, hay thậm chí tương đương với dụng ý của nó. Nó có một cuộc sống
độc lập với tư cách là một hệ thống giá trị[12].
Bằng việc phủ nhận vị trí của tác giả và
dụng ý, kiểu tiếp cận này xây dựng nên một trung tâm mới tập trung vào sự quan
tâm của người đọc: không phải tác giả mà là tác phẩm hay văn bản. Đây là một sự
thay đổi rất có ý nghĩa, nó chống lại chủ trương “cái chết của tác giả” của
Barthes ở chỗ cho phép ý nghĩa được đặt vào tác phẩm thay vì tư tưởng của tác
giả. Nó phá vỡ, hay gần như phá vỡ, “sự ảo tưởng của chủ nghĩa nhân văn”, như
Terry Eagleton giải thích:
Cách
nhìn như vậy về văn học luôn có khuynh hướng tìm kiếm những đặc trưng rõ ràng của
nó- là sự thật đã được viết ra- phần nào bị xáo trộn. Bản in của tác phẩm, với
tất cả vẻ lạnh lùng thiếu tính người của nó, là một khối đồ sộ vụng về xen vào
giữa chúng ta và tác giả. Giá như chúng ta được nói chuyện trực tiếp với
Cervantes! Một thái độ như vậy “giải vật chất” trong văn học, cố gắng giảm mật
độ vật chất là ngôn ngữ để tìm thấy tinh thần sâu sắc của những “con người” sống.
Nó đi theo sự nghi ngờ của chủ nghĩa nhân văn tự do về tất cả những gì không thể
ngay lập tức bị giản lược thành những vấn đề giữa các cá nhân, từ chủ nghĩa
bình đẳng nam nữ đến hoạt động sản xuất trong nhà máy. Kết cuộc là nó không
quan tâm đến việc xem tác phẩm văn học như bản thân tác phẩm[13].
Sự thay đổi này có thể được xem như một
kiểu cách mạng Copernic, trong đó ý nghĩa xoay quanh tác phẩm chứ không phải
tác giả. Wellek và Warren tiếp tục khẳng định rằng, “Toàn bộ ý nghĩa của một
tác phẩm nghệ thuật không thể được xác định chỉ bằng những từ nói về ý nghĩa của
nó đối với tác giả và những người cùng thời với anh ta. Thay vào đó, nó là kết
quả của một quá trình bồi đắp, tức là lịch sử phê bình của nó, bởi nhiều độc giả
trong nhiều thế hệ”. Quan niệm cho rằng một tác phẩm văn học là một kiểu bản viết
cổ trên da cừu, một bề mặt mà văn bản được viết lại trên đó một cách hiệu quả
như nó được tiến hành thông qua quá trình đọc và lịch sử phê bình, là nội dung
sẽ được phân tích kỹ hơn trong chương 5 ở mục “Những mối liên hệ văn bản”. Tuy
nhiên, kiểu phê bình đã được sửa đổi này cũng có những vấn đề, và cũng tồn tại những
quan điểm tiến bộ hơn mà chúng ta sẽ xem xét.
Một vấn đề là, bản thân tác phẩm hay văn
bản đã bị cường điệu hóa quá mức: sự thống nhất hữu cơ của kinh nghiệm được
chuyển hóa từ sự tưởng tượng của tác giả thành vẻ đẹp của một hình thức văn
chương, và vẫn có sự cảm nhận về một ý nghĩa rất cần được khám phá phải được giải
mã từ văn bản. Tác phẩm đã được cụ thể hóa, là một vật thể và có đời sống của
nó chứ không chỉ là một khung cửa kính thể hiện về tác giả. Tựa đề của những cuốn
sách theo hướng tiếp cận này được đặt là: Thần
tượng của động từ (1954), Chiếc bình
tinh xảo (1947), Trải nghiệm về ngôn
từ (1963), ý nói rằng ngôn từ vẫn chỉ là thứ yếu so với kinh nghiệm hay ý
nghĩa hàm chứa trong thơ- ngôn ngữ và ý nghĩa vẫn được xem là tách rời nhau.
Cũng có một quan niệm rằng, bất chấp tất cả những điều đó thì tác giả vẫn tồn tại
trong tác phẩm một cách vô hình, có thể nói là được đưa vào qua cửa sau. Cách
phê bình theo chủ nghĩa hình thức này vẫn cho rằng ý nghĩa, hay dụng ý được mã
hóa vào và được khám phá trong một tác phẩm văn học, là tâm điểm của quá trình
phân tích, và cũng có khả năng hiểu nhầm về một tác phẩm. Bản thân quan niệm hiểu
nhầm này rất có vấn đề: làm thế nào chúng ta có thể xác lập một việc đọc là
“đúng” hay rõ ràng? Cách làm của những Nhà Phê Bình Mới là giới thiệu một luận
điểm “ảo tưởng” mới, vật chống đỡ cho vị trí của họ ở đầu kia của trục tác giả-
tác phẩm- người đọc, và là yếu tố ngăn chặn sự diễn giải tự do theo nhiều cách.
Điều đó được gọi là “sự ảo tưởng cảm động”, thông qua đó người ta khẳng định rằng
những phản ứng chủ quan theo trường phái ấn tượng đối với một bài thơ là không
hợp lý và có nguy cơ bị méo mó về ý nghĩa tổ chức nằm trong cấu trúc của tác phẩm.
Và bối cảnh của ý nghĩa chính là tác phẩm văn học: những liên hệ nội tại của nó
về ngôn ngữ và hình thức. Kiểu phê bình này bị công kích ở hai điểm. Thứ nhất, nó
cho rằng ý nghĩa là siêu nghiệm và phổ quát: đó là một quan điểm phi lịch sử của
văn học không tính đến những điều kiện cụ thể của sáng tạo và tiếp nhận. Cái được
nhấn mạnh ở tác phẩm là giá trị thẩm mỹ hơn là giá trị vật chất, và mỹ học rất
khó bị trói buộc trên bình diện lịch sử, như nhiều quan niệm gắn liền với nó đã
thể hiện với những lời tuyên bố về sự vĩnh cửu của chân lý và cái đẹp. Thứ hai,
khái niệm về tổ chức nói đến một lực lượng sắp đặt. Ai hoặc cái gì là chủ thể sắp
đặt? Tác phẩm văn học tất nhiên không sinh ra từ một không gian phi nhân tính.
Đây là một tình thế nan giải cho các Nhà Phê Bình Mới. Khi phủ nhận dụng ý của
tác giả và đưa điểm nhấn về phía tác phẩm, thì ai sẽ điều chỉnh những phản ứng
của người đọc? Vấn đề được giàn xếp bởi các ý tưởng như những mối “quan hệ xã hội”
của tác phẩm, nhờ đó mà độc giả có thể nắm bắt được điều tác giả muốn nói, ngay
cả khi dụng ý của tác giả là không rõ ràng hay không thích đáng, vì vậy cái
quan trọng là cách thức mà tác phẩm nghệ thuật ở khoảnh khắc hoàn chỉnh của nó
có thể được hiểu đúng bởi người đọc sau đó. Đây đúng là một quan điểm của chủ
nghĩa lý tưởng trong văn học, cho rằng một tác phẩm hoàn hảo có thể được khám
phá cùng với những ý nghĩa hoàn chỉnh của nó; quan điểm này đã bỏ qua một sự thật,
rằng tác phẩm nghệ thuật thay đổi ý nghĩa của nó bằng nhiều cách trong những bối
cảnh lịch sử cụ thể khác nhau. Có vẻ như những Nhà Phê Bình Mới mong muốn có một
lối phê bình bao gồm cả hai cách, trong đó với sự từ bỏ vị trí của tác giả- hay
ít nhất là gạt bỏ dụng ý- như một căn nguyên của quyền lực, thì ý nghĩa trọng yếu
hàm chứa trong tác phẩm, như một hạt nhân của chân lý, vẫn là đối tượng thật sự
của hoạt động nghiên cứu.
Một phương pháp mà trong đó vị thế ngày
càng có vấn đề của tác giả được giàn xếp là xác lập điều mà Wayne C. Booth gọi
là “tác giả ẩn” trong cuốn Phép tu từ của
hư cấu (1961). Thuật ngữ này chỉ ra cách mà sự cảm nhận về một tác giả thường
gắn với tác phẩm, ngay cả khi hình ảnh về tác giả tương đối khác với cái chúng
ta biết về con người lịch sử của tác giả. Trong tiểu thuyết của John Fowles, The French Lieutenant’s woman (Người đàn
bà của viên trung úy Pháp) (1969),
hình ảnh về một tác giả ẩn được thể hiện rõ ràng- thật ra nó đã trở thành một
phương tiện hư cấu quan trọng- nhưng có thể sai lầm nếu giả định rằng hiệu quả
của văn bản này tương đương với cuộc đời thật của John Fowles, người có một cuộc
sống độc lập bên ngoài tác phẩm. Những trường hợp tiểu thuyết như Wurthering Heights (Đồi gió hú) (1847) của
Emily Bronte hay The Good Soldier (Chiến
binh dũng cảm) (1915) của Ford Maddox Ford thì khó hơn theo một mức độ cảm nhận
nào đó, bởi vì nghệ thuật tự sự của chúng ngăn cản bất cứ ấn tượng nào về tác
giả, nhưng mặt khác chúng lại gợi lên những vấn đề thú vị về sự chi phối của
tác giả và quyền tác giả. Tiểu thuyết của Thomas Hardy gần như là một trường hợp
đối lập; dễ nhận diện người kể chuyện thấu suốt ở ngôi thứ ba như là một tác giả
ẩn trong tác phẩm, nhưng chúng ta không nên rơi vào bẫy của việc đánh đồng nhân
vật này với con người thật của tác giả. Nhân vật kể chuyện của Hardy thật ra
không phải luôn luôn thể hiện sự nhất quán, và chúng ta cần thận trọng để không
xem chúng là kiểu nhân vật không phân biệt trong tác phẩm, hay chính là tác giả
Hardy.
“Tác
phẩm” và “văn bản”
Trong một chừng mực nào đó tôi đã dùng
chữ “tác phẩm” hay “văn bản” để nói đến sự sáng tạo của cá nhân trong văn học
như là hai từ đồng nghĩa. Tuy có vẻ như là chúng được dùng để chỉ cùng một đối
tượng, thật ra chúng có những ý nghĩa khác nhau và những ý nghĩa này thể hiện sự
khác biệt giữa một cách tiếp cận văn học có hiểu biết lý luận văn học và phương
pháp bao gồm những quan điểm truyền thống hơn. Dĩ nhiên là từ “văn bản” đã được
sử dụng, từ trước khi có sự xuất hiện của cái mà chúng ta nghĩ là lý luận văn học,
để chỉ một bài thơ, một vở kịch hay một tiểu thuyết- thường để gây sự chú ý về
những đặc trưng ngôn ngữ của văn học có thể bị bỏ qua khi xem xét những vấn đề
về kinh nghiệm hay dụng ý. Mặt khác, từ “tác phẩm” thiên về sự kết nối giữa việc
tạo tác hay sản phẩm và nghệ sĩ hay nhà văn; nó cũng dùng để chỉ những sản phẩm
thủ công được tạo tác khéo léo. Những sự phân biệt theo kiểu này đã dẫn dắt
Roland Barthes và những nhà lý luận khác đến chỗ xác định một vị trí rõ ràng
trong mối quan hệ với những tạo tác văn chương bằng cách quyết định sử dụng
khái niệm “văn bản”, gán cho nó những ý nghĩa cụ thể. Barthes làm rõ ý này
trong hai bài luận, “Cái chết của tác giả” đã được bàn đến và “Từ tác phẩm đến
văn bản” (1971). Theo ông, từ “tác phẩm” mang lại cảm nhận về một sản phẩm tạo
tác mà tác giả có thể chi phối toàn bộ, củng cố những kiểu ý định truyền thống,
và là một cách tiếp cận lấy tác giả làm trung tâm trong việc phân tích tác phẩm.
Nó cũng hàm ý về sự chú ý đến tác giả như là một thiên tài cá nhân, một nguồn lực
tưởng tượng và sáng tạo để tạo ra những nguyên bản- theo Barthes là một quan điểm
được lãng mạn hóa về sáng tạo văn học. Khái niệm của ông về văn bản và “nguyên
bản” đúng là một sự lệch lạc so với quan điểm truyền thống.
Ý tưởng về nguyên bản rất phức tạp và sẽ
được xem xét chi tiết hơn sau này, nhưng những ý chính mà Barthes và những nhà
lý luận khác đưa vào khái niệm “văn bản” như một sự đối lập với “tác phẩm” cần
được giới thiệu. Trước hết, như những khẳng định trước đây, tác giả không được
xem là nhân tố chính tạo ra tác phẩm, cũng không cần được nhận diện cùng với
tác phẩm. Như Barthes lý luận, “Anh ta trở thành, có chăng, một tác giả danh
nghĩa: đời sống của anh ta không còn là khởi nguyên của hư cấu mà là một hư cấu
góp phần vào tác phẩm của anh ta… Kể cả cái tôi viết nên tác phẩm cũng không có
gì hơn là một cái tôi danh nghĩa”[14].
Barthes đảo ngược quan điểm cho rằng tác giả chi phối và sáng tạo ra ngôn ngữ của
tác phẩm; theo ông thì tác giả cũng là một sản phẩm hay hệ quả của nguyên bản:
“cái lên tiếng là ngôn ngữ chứ không phải tác giả”. Nói cách khác, ý tưởng về
tác giả trở thành một bộ phận, một tự sự trong số nhiều yếu tố khác tạo nên tác
phẩm. Điều này dẫn đến ý thứ hai, tác phẩm văn học là một hệ thống các ý nghĩa,
được tạo nên từ nhiều diễn ngôn: có nhiều tầng lớp trong cấu trúc tác phẩm. Sự
đa dạng này không thể bị tiết giảm hay chưng cất lại thành một ý nghĩa duy nhất,
chắc chắn và rõ ràng. Khi đọc một tác phẩm, người ta có thể nắm bắt được một
khía cạnh và cho rằng đó là ý nghĩa trung tâm, nhưng theo Barthes nếu có bất cứ
điều gì là thiết yếu về ý tưởng của một tác phẩm, thì đó chính là bản chất đa dạng
của nó: điều đó là “không thể giản lược” và mời gọi việc đọc hay phân tích tác
phẩm nhiều lần. Tư tưởng muốn tìm kiếm một ý nghĩa tối thượng của Hamlet hay “Ode to a Nightingale” (Ngợi
ca chim sơn ca) (1819) không chỉ là vô ích, mà đã bỏ qua rất nhiều ý nghĩa hàm
chứa trong những tác phẩm đó. Thật rõ ràng mà cũng thật mỉa mai, hoạt động phê
bình trước đó đã diễn ra như vậy: thực tiễn phê bình liên tục tuyên bố đã tìm
ra những phân tích rõ ràng về một vở kịch, một bài thơ hay một tiểu thuyết, điều
đó rõ ràng là việc tự thủ tiêu. Thứ ba, Barthes cho rằng ý nghĩa phát sinh từ
ngôn ngữ, hay là từ “ký hiệu”, như những nhà lý thuyết ngôn ngữ và những người
theo chủ nghĩa cấu trúc quan niệm. Chính ngôn ngữ, chứ không phải kinh nghiệm, tạo
ra ý nghĩa. Tiềm năng của một tác phẩm văn học làm sản sinh ra nhiều ý nghĩa được
nhận ra thông qua phép hoán vị ngôn ngữ có trong tác phẩm và phụ thuộc vào bối
cảnh đọc: là lịch sử và cá nhân người đọc. Để cho rằng một tác phẩm có một ý
nghĩa riêng, xuất phát từ tư tưởng tác giả hoặc từ một sự hài hòa lý tưởng mang
tính thẩm mỹ, hãy loại bỏ hết những khả năng khác trong việc đọc để chú trọng vào
việc cảm thụ và những hướng tiếp cận phê bình nhất định. Theo Barthes và những
nhà lý luận khác, đọc và cảm thụ là những hoạt động mang tính tương đối và dễ
gây tranh cãi, hơn là một quá trình quy củ được thiết lập; ở đây thể hiện quan
điểm của ông về phê bình văn học lành mạnh và niềm vui lớn nhất khi đọc tác phẩm,
được kiến tạo xoay quanh việc công nhận những tư thế đọc khác nhau và trò chơi
của ngôn ngữ trong tác phẩm. Từ “trò chơi” thể hiện rằng ngôn ngữ không phải là
đơn nhất và cố định một cách lạnh lùng, mà mở rộng cho nhiều ý nghĩa linh hoạt,
và có thể thay đổi. Barthes chuyển điểm nhấn không chỉ từ “tác phẩm” sang “văn
bản”, mà như chúng ta thấy, là sang phía người đọc, trong một phát biểu quan trọng:
Toàn
bộ sự tồn tại của tác phẩm được thể hiện như thế: một tác phẩm được tạo nên từ
nhiều lối viết, đến từ nhiều mảng văn hóa và đi vào những mối tương quan giữa hội
thoại, bắt chước, tranh cãi, nhưng có một vị trí mà sự đa dạng này tập trung
vào và vị trí đó là người đọc, chứ không phải, như người ta vẫn nói trước đây,
là tác giả.
Cuối cùng, Barthes và những người khác,
đặc biệt là trong những lý thuyết gắn liền với Văn hóa học, dùng từ “văn bản”
theo nghĩa rộng nhất của nó. Đó không chỉ là đời sống văn chương ở mức độ cao,
hoặc có thể là những “tác phẩm” kinh điển của văn học “tiếng Anh” mà còn là
phim, quảng cáo, tranh ảnh và dĩ nhiên là có cả văn học đại chúng. Điều này phá
vỡ khái niệm, dựa trên quy tắc mang tính truyền thống, về những yếu tố cấu tạo
nên một tác phẩm hay văn bản, và cũng đặt văn bản vào một không gian rộng lớn
hơn, ở đó chúng ta có thể bắt đầu đặt câu hỏi về vấn đề có hay không có một sự khác
biệt về bản chất giữa những tác phẩm được xem là cao cấp với những tác phẩm đại
chúng, và khảo sát những nguyên nhân lịch sử và văn hóa dẫn đến sự phân chia thứ
bậc như vậy. Trong những lĩnh vực của lý luận và phê bình văn học, những kiểu
tiếp cận xuất phát từ ngôn ngữ học và lý thuyết ngôn ngữ, từ Văn hóa học và những
lĩnh vực gắn liền với nó, đưa ra nhiều viễn cảnh khác nhau và cung cấp những
phương pháp đọc có thể lựa chọn cho quan điểm có thể được miêu tả là “những tư
tưởng lớn sinh ra những tác phẩm lớn”.
Độc
giả
Như chúng ta có thể thấy trong phần trước,
người đọc có được vai trò và vị thế mới theo mô hình của Barthes về sáng tạo
văn học. Có lẽ một lý do dẫn đến việc coi trọng người đọc và tính năng động của
việc đọc rõ ràng là do trong trục tác giả- tác phẩm- người đọc thì người đọc
thường được xem là nhân tố ít quan trọng nhất: vai trò của người đọc đại thể được
xem là rõ ràng và do vậy không cần rà soát hay giải thích. Khác với sự chú ý được
dành cho tác giả và tác phẩm hay văn bản, độc giả được cho là người lĩnh hội ý
nghĩa một cách bị động, vai trò của họ được giả định và ghi nhận theo những
cách không xem xét đến những vấn đề của việc đọc. Phê bình lấy tác giả làm
trung tâm, như chúng ta đã thấy, giả định rằng tác giả là nguồn gốc và đối tượng
của cả văn học và sự cảm thụ. Phê bình lấy tác phẩm/ văn bản làm trung tâm- như
trường phái Phê bình mới của thập niên 1940 và 1950- với quan niệm “bản thân
thơ ca” là nguồn gốc của ý nghĩa và là đối tượng của phê bình, cũng đẩy người đọc
ra vị trí thứ yếu hay bị loại trừ. Trên thực tế, trường phái Phê bình mới cũng
phát triển “ảo tưởng cảm động” (W. K. Wimsatt và M. C. Beardsley, “Sự ảo tưởng
cảm động” 1949) trong phát biểu: “Nó bắt đầu bằng việc cố gắng rút ra những
tiêu chuẩn của phê bình từ hiệu ứng tâm lý của bài thơ, rồi kết thúc trong chủ
nghĩa ấn tượng và chủ nghĩa tương đối. Kết quả… là bản thân bài thơ, với tư
cách là đối tượng của việc đánh giá phê bình riêng biệt, thường bị mất đi”. Như
vậy, quan điểm này loại trừ cả người đọc và tác giả cho một kiểu phê bình được xem
là khách quan tập trung vào bản thân tác phẩm. Tuy nhiên cần phải nói thêm rằng
không phải tất cả những tác phẩm văn học, và có lẽ không phải mọi tác giả, đều xem
người đọc là thụ động và giống nhau: tiểu thuyết Tristram Shandy (1760- 7) của Laurence Sterne đòi hỏi mạnh mẽ ở người
đọc với những lời văn trực tiếp và những câu hỏi không cho phép sự bị động. Mặc
dù hơn 200 năm sau, tiểu thuyết If on a
winter’s night a traveller (Nếu là khách lữ hành trong đêm đông) (1979, được
dịch năm 1981) của Italo Calvino nhấn mạnh vai trò người đọc ở mức độ công nhận
quá trình lý tính của việc đọc:
Bạn
sắp bắt đầu đọc tiểu thuyết mới của Italo Calvino, If on a winter’s night a
traveller. Hãy thư giãn. Tập trung. Xua hết mọi ý nghĩ khác. Hãy để cho thế giới
xung quanh bạn mờ đi. Tốt nhất là đóng cửa lại; vì tivi luôn mở ở phòng bên…
Hãy tìm một vị trí thoải mái nhất: ngồi xuống, duỗi thẳng người, co tròn lại
hay nằm dài ra. Nằm ngửa, nằm nghiêng hay nằm sấp. Trên một chiếc ghế bành,
trên sofa, trên ghế xích đu, trên ghế ở bàn làm việc hay trên một tấm đệm ngồi.
Hoặc là trên võng, nếu mà bạn có võng. Trên đầu giường, và tất nhiên, trên giường.
Thậm chí bạn có thể ở trong tư thế trồng chuối, chúc đầu xuống như khi tập
yoga. Với quyển sách mở ra, một cách tự nhiên[15].
Tiểu thuyết của Calvino bao hàm cả người
đọc theo một cách tương đối rõ ràng mà những tiểu thuyết hiện thực truyền thống,
chẳng hạn như Tess of the d’Urbervilles
(1891) của Hardy hay Hard Times của
Charles Dickens, hầu như không thể hiện. Đây là một đặc điểm của nhiều tác phẩm
hiện đại, và đặc biệt hơn, tác phẩm hậu hiện đại, ở đó bản chất được kiến tạo của
hư cấu và mối quan hệ của nó với người đọc được nhìn nhận (Xem chương 5, mục
“Chủ nghĩa hậu hiện đại”). Sự vặn vẹo thân thể của người đọc được nói đến trong
If on a winter’s night a traveller
cũng tương tự, hay có lẽ là sự bắt chước, sự phong phú của các kiểu đọc phân
tích mà lý thuyết phê bình đã nhận diện.
Một phương pháp mà phê bình văn học trước
đây gắn liền với sự nổi lên của “tiếng Anh” đã xác lập quyền lực của nó, đó là
cách giả định rằng mọi độc giả rốt cuộc đều giống nhau, hoặc là họ đều có một sự
phù hợp. Sự thật là độc giả hết sức đa dạng về mọi phương diện như thành phần
xã hội, giới tính, điều kiện lịch sử, chủng tộc hay văn hóa dường như không có
ý nghĩa trong phê bình văn học cho đến gần đây. Định nghĩa của F. R. Leavis về người
đọc lý tưởng là một kiểu mơ hồ điển hình: “Thông qua những nhà phê bình thơ,
tôi hiểu được người đọc lý tưởng: nhà phê bình lý tưởng là người đọc lý tưởng”.
Đó là mức độ mà Leavis có thể, và mong muốn, đạt đến; có lẽ ông muốn nói rằng
ai đó “hiểu rõ” mọi ý nghĩa có thể có trong một tác phẩm khi anh ta đọc nó: điều
này hàm ý về tình trạng không hoàn hảo của đa số độc giả và sự cần thiết phải
tiến đến một sự am hiểu nhất quán thay vì cho phép sự đa dạng hơn nữa về những
khả năng trong việc đọc và lĩnh hội.
Cũng như khái niệm “tác giả ẩn”, sau
Wayne C. Booth thì có nhà lý luận Wolfgang Iser phát triển ý tưởng về “độc giả ẩn”
(Độc giả ẩn: những kiểu giao tiếp trong
văn xuôi hư cấu từ Bunyan đến Beckett, 1974) để mô tả kiểu tương tác giữa
tác phẩm và độc giả. Độc giả ẩn khác với độc giả thực hay độc giả thông thường;
đó là một phần của “cấu trúc tác phẩm” hay có thể là phần được nghĩ đến nhiều
hơn, như là một người đọc từ bên trong, thể hiện một điểm gắn kết chặt chẽ, ở
đó nhiều ý nghĩa và mã của tác phẩm có thể được khám phá. Sau Iser, những kiểu
độc giả trở nên đa dạng một cách đáng kể. Tiểu thuyết The Name of the Rose (Tên của hoa hồng) (1980, được dịch năm 1983)
của Umberto Eco tìm kiếm, trong nhiều kiểu hư cấu khác, vị trí của độc giả, tạo
nên khái niệm “độc giả kiểu mẫu” (Vai trò
của độc giả: Sự khám phá tác phẩm
theo ký hiệu học, 1981). Độc giả kiểu mẫu của Eco không khác với độc giả ẩn
của Iser- nó là một kiểu “độc giả thích hợp… có thể lĩnh hội những nội dung diễn
đạt theo cùng một cách mà tác giả đã tạo ra chúng”, một tập hợp những điều mà
Eco gọi là “những điều kiện cho sự diễn đạt thích hợp” để làm cho một tác phẩm
“trở nên thật hoàn toàn”. Trong The Name
of the Rose, Adso, người kể chuyện và là học trò của anh William ở
Baskerville, hỏi William: “Để hiểu một cuốn sách nói gì thì anh có phải đọc những
cuốn khác không?”. William trả lời: “Có lẽ đôi lúc là như vậy. Thường thì những
cuốn sách nói về những cuốn sách khác”. Tiểu thuyết làm rõ cảm nhận về một người
đọc lý tưởng, có thể hiểu hết nội dung và cách thể hiện những kiểu ám chỉ, bóng
gió, mô phỏng..v..v.- cũng như Adso được William tập cho đọc truyện trinh thám
trong số nhiều thể loại, một độc giả thực sự mong muốn một kiểu đọc mà tác phẩm
khuyến khích.
Tầm quan trọng của độc giả trong lý luận
và phê bình văn học được nâng lên đã dịch chuyển trọng tâm của phê bình và phân
tích ra khỏi những phương pháp tiếp cận văn học lấy tác giả hay văn bản làm
trung tâm, đồng thời mở ra khả năng cho một tập hợp đa dạng các kiểu phản ứng đối
với tác phẩm, và cũng cho phép tập trung nhiều hơn vào bản thân quá trình phức
tạp của hoạt động đọc và cảm thụ tác phẩm. Theo một cách cảm nhận nào đó, sự
thay đổi này có thể xem như một sự vận động của ý thức hệ từ sức mạnh của tác
giả và văn bản sang sức mạnh của độc giả. Theo một cách khác, nó xác định lại
văn học như là một sản phẩm mang tính lịch sử, phụ thuộc vào bối cảnh tiếp nhận,
thừa nhận rằng tác phẩm có sự thay đổi liên quan đến hoàn cảnh mà nó được đọc.
Những quan niệm gắn liền với kiểu phê bình lấy tác giả làm trung tâm hay lấy
tác phẩm làm trung tâm, xem việc đọc là thống nhất, đơn giản và “chính xác”, đã
không còn giá trị. Lý luận và phê bình theo phản ứng của người đọc, và những
lĩnh vực liên quan của lý thuyết tiếp nhận, sẽ được xem xét kỹ hơn về sau; nó
cũng sẽ trở nên quan trọng trong mối liên hệ với cách tiếp cận của phân tâm học
và chủ nghĩa nam nữ bình đẳng. Có lẽ trong thời gian này nên nhìn nhận rằng lý
luận, thay vì đẩy văn học ra xa cá nhân người đọc hay những nhóm độc giả khác
nhau, trên thực tế đã trả lại tác phẩm và “kinh nghiệm” đọc bằng những cách mà ngày
nay có thể được khám phá và thảo luận một cách rõ ràng: những cách tiếp cận như
vậy giúp chúng ta hiểu được những ý nghĩa và sự diễn giải khác nhau đã được
sinh ra như thế nào, và có thể giúp từ bỏ thái độ, đôi khi có vẻ độc đoán và
đáng sợ, có khả năng được biểu hiện trong giảng dạy và nghiên cứu văn học. Lý
luận là một công cụ phê bình hiệu quả, và bản thân nó có thể được dùng theo
cách bó buộc hay là cách tự do.
[1] Về sự bàn luận đầy đủ
hơn về sự nổi lên của “tiếng Anh” và những hàm nghĩa văn hóa lịch sử của nó,
xem Chris Baldick, Nhiệm vụ xã hội của
phê bình tiếng Anh (Oxford, Oxford University Press, 1983) và Brian Doyle,
“Sự sáng tạo của tiếng Anh” trong Robert Colls and Philip Dodd, eds., Tinh thần Anh ngữ: chính trị và văn hóa
1880- 1920 (London, Croom Helm, 1986), pp. 89- 115.
[2] D. H. Lawrence, “John
Galsworthy”, trong A. A. H. Ingis, ed., D. H. Lawrence: một nhân vật được chọn
trong những người ưu tú (Harmondsworth, Penguin, 1971), p. 284. Xuất bản lần đầu tiên năm 1928.
[3]F. R. Leavis, “Văn học
và xã hội”, trong F. R. Leavis, Theo đuổi
chung (Harmondsworth, Penguin, 1976), p. 194. Xuất bản lần đầu tiên năm
1952.
[4] T. S. Eliot, “Truyền
thống và tài năng cá nhân”, trong Frank Kermode, ed., Tuyển tập văn xuôi của T. S. Eliot (London, Faber & Faber,
1975), p. 38. Xuất bản lần đầu năm 1991.
[5] F. R. Leavis, “Phê
bình và triết học”, trong Leavis op. cit.,
pp. 212- 13.
[6] Xem Terry Eagleton, Giới thiệu lý luận văn học (Oxford,
Basil Blackwell, 1983), chương 1.
[7] A. C. Bradley, Bài giảng Oxford về thơ ca (London,
Macmillan, 1950), pp. 310- 11. Xuất bản lần đầu năm 1909
[8] F. R. Leavis, “Châm
biếm Swift”, trong Leavis, op.cit.,
p.73.
[9] Roland Barths, “Cái
chết của tác giả”, trong Hình ảnh- âm nhạc-
văn chương (London, Fontana, 1977), p. 143. Xuất bản lần đầu tại Pháp năm
1968.
[10] Michel Foucalt, “Tác
giả là ai?”, trong Jose V. Harari, ed., Những
kỹ thuật của văn bản (London, Methuen, 1980) pp. 141- 60. Xuất bản tại lần
đầu tại Pháp năm 1968.
[11] Về sự thảo luận về sự
nổi lên của tiểu sử trong thế kỷ XIX và những tác động của nó đến sự hình thành
bộ môn tiếng Anh, xem David Amigoni, Tiểu
sử thời Victoria: trí thức và sắp xếp diễn ngôn (Hemel Hempstead,
Harvester, 1993).
[12] Rene Wellek và Austin
Warren, Lý luận văn học
(Harmondsworth, Penguin, 1973), p. 42. Xuất bản lần đầu ở Mỹ năm 1949.
[13] Terry Eagleton, op.
cit., pp. 120- 1.
[14] Roland Barthes, “Từ
tác phẩm đến văn bản”, trong op. cit.,
p. 121. Xuất bản lần đầu tại Pháp năm 1971.
[15] Italo Calvino, If on a winter’s night a travreller
(London, Pan, 1982), p. 9. Xuất bản lần đầu tại Ý năm 1979.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét