Cuộc “gặp gỡ” giữa tôi và Nhật Bản, nếu xem nước Nhật
là đối tượng nghiên cứu mà tôi đã lựa chọn khi đăng ký chuyên ngành, thì chủ yếu
là do quyết định có mục đích, chứ không phải do yếu tố ngẫu nhiên. Tôi đã ghi từ
“Nhật Bản” vào ô trống được dành để ghi chuyên ngành lựa chọn, khi tôi vẫn chưa
nhìn thấy bất cứ ký tự nào trong tiếng Nhật, không biết bản đồ nước Nhật có
hình dạng thế nào, hay thủ đô Nhật Bản cách Hà Nội khoảng mấy giờ bay. Nhưng đó
là quyết định nghiêm túc và không hề miễn cưỡng. Tôi đã thiếu thông tin trầm trọng
về đối tượng mà mình lựa chọn để nghiên cứu, nhưng điều đó không hề xuất phát từ
ý chí hay tình cảm của riêng tôi.
Vì vậy, tôi sẽ không nói, mà đúng hơn là tôi không
thể nói, rằng tôi “gặp” nước Nhật là do sự tình cờ. Nhưng có thể nói rằng việc
lựa chọn Nhật Bản làm đối tượng nghiên cứu đã mang đến cho tôi nhiều cuộc gặp gỡ
tình cờ với nhiều người, cả người Nhật và người Việt sống trên đất Nhật, trong
đó có những người đã để lại ảnh hưởng sâu đậm trong quá trình học tập và nghiên
cứu của tôi.
Những gặp gỡ ngẫu nhiên ban đầu là gặp gỡ giáo viên
bản xứ trong giờ học đàm thoại tiếng Nhật. Lớp tôi dạo ấy được học với khá nhiều
giáo viên, nên hình ảnh người Nhật mà tôi ghi nhận trong bốn năm ở trường dần
trở nên đa dạng về cả diện mạo và tính cách. Nhưng nói cho công bằng thì không
ai trong số đó để lại trong tôi nhiều thiện cảm về nước Nhật và kích thích lòng
say mê tìm hiểu về Nhật Bản bằng người thầy đã dạy cho chúng tôi chuyên đề về
kinh tế Nhật Bản vào cuối năm thứ ba.
Thầy là vị giáo sư duy nhất đã đến với chúng tôi, trong phạm vi thời gian của khóa học 4 năm,
từ hệ thống đại học ở Nhật Bản.
Nhưng
thầy
là người Việt. Khi ấy, cũng vì thiếu thông tin mà, trước khi thầy lên lớp, tôi
chỉ được biết loáng thoáng rằng nơi thầy đang công tác là một trường đại học nổi
tiếng ở Tokyo. Nhưng dù có được biết chi tiết hơn về lý lịch học thuật hay những
mối quan hệ xã hội của thầy đi chăng nữa, tôi cũng không thể nào hình dung về
thầy như những gì thầy thể hiện trước lớp, trong những giờ học mà tôi còn ghi
nhớ rõ nét nhất khi hồi tưởng về những năm tháng sinh viên.
Với vẻ mặt tươi cười thân thiện, thầy nói lời đầu
tiên trước lớp, mà tôi chỉ nhớ đại ý, là thầy xin phép sẽ nói... tiếng Quảng
Nam, tuy rằng thầy đã sống và làm việc ở Nhật đến mấy chục năm rồi! Thú thật là
cho đến thời điểm ấy tôi vẫn chưa đủ điều kiện để có ấn tượng gì đặc biệt về
người Quảng Nam, hay người ở bất cứ vùng nào trên cả nước. Nhưng câu nói của thầy
gợi lên trong tôi một linh cảm rằng giờ học với thầy sẽ vô cùng đặc biệt, như
thể cái địa danh Quảng Nam, chứ không phải là Waseda danh tiếng hay Tokyo hoa lệ,
đã thổi vào lớp học một làn gió lạ và tươi mát, trong lành.
Cho đến khi gặp thầy, tôi chưa từng nghĩ là mình
thích học môn kinh tế, dù cũng chẳng có lý do gì để ghét học môn này. Với tôi,
kinh tế chỉ là một môn học đem đến thông tin. Tôi không thấy nó gắn với cái gì
khiến cho mình đam mê hay cảm động. Cho nên, nói một cách nôm na thì khi ấy tôi
chỉ suy nghĩ đơn giản rằng, chuyên đề mà thầy dạy sẽ giúp tôi hiểu biết đôi điều
về sự giàu có của người Nhật Bản.
Dù sao, tôi đã không lựa chọn chuyên ngành vì ngưỡng
mộ nền kinh tế Nhật, nên chuyên đề kinh tế không phải là sự quan tâm số một của
tôi. Dĩ nhiên là chúng tôi có được khích lệ hơn một chút khi biết rằng người giảng
dạy là một vị giáo sư đến từ Nhật Bản. Nhưng cái danh vị ấy dường như cũng khiến
thầy trở nên rất cao xa so với thế giới chật hẹp và nghèo nàn của chúng tôi lúc
đó. Nói tóm lại, tôi chẳng có mong đợi gì đặc biệt khi đến lớp trong buổi đầu tiên được học với thầy.
Thầy không giảng bài theo kiểu của một nhà hùng biện.
Không mang lại cho chúng tôi cảm giác rằng mình đang đón nhận cái gì đó rất kỳ
vĩ, rất cao sang để đem về cất giữ. Thầy lên lớp trong tâm thế của một người
tìm gặp các bạn trẻ để trao đổi, chuyện trò. Chỉ khi nào thấy chúng tôi ngơ
ngác vì một khái niệm khó thì thầy mới giải thích bằng tri thức căn bản, còn lại
thì giờ giảng của thầy luôn kết hợp giữa cung cấp thông tin và thảo luận vấn đề.
Tôi chỉ tiếc rằng khi ấy mình chưa đủ kiến thức nền
tảng và năng lực tư duy về kinh tế xã hội để tích cực tham gia phát biểu trong
giờ học, dù biết rằng chỉ nghe giảng không thôi thì chưa đủ. Nhưng tôi nhớ rất
rõ phong thái của thầy khi tương tác với sinh viên. Dù chúng tôi phát biểu chưa
chính xác, chưa đầy đủ hoặc thậm chí có những chỗ sai lệch, ngô nghê thì thầy vẫn
ân cần lắng nghe với nụ cười khích lệ, sau đó mới nhẹ nhàng bình luận và giải
thích để chúng tôi tự chỉnh sửa và mở rộng kiến thức tiếp thu.
Có lần lớp chúng tôi học giờ của thầy trong hội trường
khá rộng, và thầy phải đứng trên sân khấu thay vì trên bục giảng. Điều kiện ấy
có vẻ gây khó khăn cho thầy trong việc tương tác với sinh viên. Thầy phải nói
to hơn thường lệ, còn chúng tôi cũng phải dồn về khu vực gần sân khấu để nhìn
được rõ hơn những nội dung thầy ghi lên bảng. Người được thầy gọi tên đầu tiên hôm
ấy là một cô bạn thân trong nhóm của tôi. Tôi không nhớ nội dung câu hỏi thầy
đưa ra lúc ấy, chỉ nhớ là khi cô bạn tôi đứng dậy trả lời thì thầy đang đứng
trên sân khấu với micro lùng nhùng dây nhợ trên tay. Khoảng cách giữa sân khấu
và ghế ngồi của sinh viên khá xa nên dường như thầy không nghe rõ nội dung phát
biểu. Gương mặt thầy có vẻ căng thẳng, rồi thoáng cái, để nghe được rõ hơn lời
phát biểu của cô bạn tôi trong thời gian nhanh nhất, thầy đã bước vội xuống sàn
phòng, gần như phải thực hiện một bước nhảy vì sân khấu khá cao, mà không dùng
lối đi chính thức có bậc cấp ở gần bên hai cửa ra vào.
Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy một giáo sư coi trọng
việc lắng nghe ý kiến của sinh viên hơn việc giữ dáng vẻ đạo mạo của mình trên
bục giảng. Và chính những biểu hiện như thế trong tác phong của thầy, chứ không
phải chức danh giáo sư hay cái tên của một trường đại học danh tiếng, đã khiến
tôi nghĩ về thầy như một người đến từ nước Nhật Bản văn minh. Dĩ nhiên tôi
không ngớ ngẩn đến mức tưởng rằng ở đất nước văn minh thì ứng xử của mọi người
nhất loạt giống nhau trong từng cử chỉ, nhưng tôi có cảm giác rằng thái độ và
tác phong của thầy là biểu hiện của một nếp sinh hoạt khác với những gì tôi từng
biết. Điều đó đã khơi dậy trong tôi niềm ao ước được đến thăm môi trường làm việc
của thầy, vì tôi tin rằng ít nhất thì cái nếp sinh hoạt ấy phải được hình thành
từ một hệ giá trị mà ý nghĩa nhân văn của hoạt động giáo dục được đặt vào đúng
chỗ của nó.
Chuyên đề của thầy kết thúc rất nhanh chỉ sau vài buổi
học. Đó cũng không phải là chuyên đề mà tôi đạt điểm cao, hay là hướng chuyên
môn mà tôi lựa chọn đề nghiên cứu lâu dài. Nhưng điều tôi học được từ thầy
không chỉ là nội dung về kinh tế Nhật Bản. Nói một cách đơn giản, sự xuất hiện
của thầy đã có tác dụng động viên tôi rất nhiều trong những tháng ngày chật vật
kiếm tìm một lối đi.
Lần đầu tiên tôi đọc sách viết về kinh tế - xã hội
mà say mê như là đọc tiểu thuyết. Đó là cảm giác mà tôi còn nhớ được khi đọc một
trong những trước tác của thầy. Và tôi đã đánh bạo viết thư điện tử để bày tỏ với
thầy rằng tôi rất xúc động, rất tâm đắc với những lập luận của thầy trong sách.
Hành động “liều lĩnh” khởi đầu này đã giúp tôi giữ liên lạc với thầy trong một
khoảng thời gian khá dài kể từ khi tốt nghiệp.
Khi kế hoạch về chuyến tham quan Nhật Bản của nhóm
chúng tôi được xác định rõ ràng, ý nghĩ đầu tiên đến với tôi là “mình đã tìm được
cơ hội đến thăm nơi làm việc của thầy trên đất Nhật”. Cho nên, dù lần ấy chúng
tôi chỉ ghé lại Tokyo có 3 ngày trước khi về nước, tôi đã cố gắng liên lạc sớm
với thầy để thực hiện
niềm mong ước mà bấy lâu tôi vẫn hằng ấp ủ. May mắn là thầy có thể thu xếp ngay
một cuộc hẹn vào thời điểm khá thuận tiện cho tôi.
Cùng đi với tôi lần ấy có một cô bạn cũng mới vừa đến
Nhật, chính là cô bạn đã phát biểu đầu tiên vào cái buổi thầy dạy chúng tôi ở hội
trường.
Phòng nghiên cứu của thầy nằm trong một tòa nhà cao
tầng bề thế giữa khuôn viên đại học. Cửa thang máy mở ra một hành lang yên lặng
và dài tít tắp trước mắt tôi. Thảm trải sàn nuốt trọn tiếng bước chân để đảm bảo
sự tĩnh lặng và thâm nghiêm như dấu hiệu đặc trưng ở khu vực các giáo sư làm việc.
Chúng tôi vừa đi vừa nhìn từng cánh cửa để xác nhận số phòng. Trên cửa còn có
tên của các giáo sư, được viết bằng Hán tự với cỡ chữ vừa đủ cho tầm nhìn của
người đi dọc hành lang ấy.
Phòng của thầy nằm ở gần góc ngoặt hành lang. Mắt
tôi đang lướt đều qua từng cánh cửa im ỉm khép với những cái tên Nhật viết bằng
Hán tự thì đột nhiên khựng lại khi bắt gặp tên thầy. Nói cho chính xác là bắt gặp
những mẫu tự trong hệ chữ kana ghi phiên âm tên tiếng Việt của thầy. Một chi tiết
rất nhỏ nhưng đủ để khẳng định sự tồn tại của yếu tố khác biệt. Như một cây bạch
dương đứng giữa rừng sồi. Một thanh âm khác lạ xen vào bản hòa âm cứ tưởng như
sẽ ngân dài không dứt.
Có một điều gì đó bỗng xôn xao nhè nhẹ trong tôi. Tôi
biết rằng mình chẳng can dự gì đến sự tồn tại của cái tên tiếng Việt được ghi bằng
mẫu tự kana trên cánh cửa. Nhưng tôi có cảm giác như một người nông dân trên bước
đường tha phương cầu thực chợt nhìn thấy một khoảng vườn xanh tươi giữa phố phường
lô nhô cao ốc. Khoảng vườn tuy không thuộc về mình nhưng dường như tỏa ra một chút
gì ấm áp thân quen. Và cứ như là nhờ màu xanh quen thuộc ấy mà mình thêm được
chút tin yêu về cái đẹp từng gần gũi với mình trong thế giới đơn sơ mộc mạc.
Sau này, khi kể lại cảm giác ấy với một vài người bạn, tôi vẫn nói đùa rằng nhờ
“một thoáng xôn xao” đó tôi mới phát hiện ra, mới biết được trong góc khuất tâm
hồn mình vẫn “có tinh thần dân tộc” hơn mình tưởng!
Gặp chúng tôi giữa lúc đang bộn bề công việc nhưng
thầy vẫn luôn giữ phong thái nhẹ nhàng, trầm tĩnh. Thầy nói rất ít khi chúng
tôi hỏi thăm thầy về công việc cá nhân, chỉ ân cần hỏi han chúng tôi về hoàn cảnh
đến Nhật, về nguyện vọng học tập và công tác, rồi nhắc đến những vấn đề thời sự
ở Việt Nam với ánh mắt đong đầy những khắc khoải, ưu tư. Điều đó làm tôi thấy
xót xa mỗi khi nhớ đến thầy. Và cũng chính điều đó đã nhắc nhở tôi rằng, dù cho
mình có trôi dạt đến đâu, có mang quốc tịch gì hay làm việc ở đất nước nào đi nữa,
thì một phần nào đó trong con người của mình vẫn thuộc về cái nơi mà mình đã
sinh ra, vẫn vui buồn nóng lạnh với từng cơn nắng sớm mưa chiều trên miền đất ấy.
Cho đến bây giờ, 12 năm kể từ khi tốt nghiệp đại học,
tôi chỉ mới được gặp thầy có hai lần trong phòng nghiên cứu ở nơi thầy làm việc,
và một vài lần khác trong những chương trình trao đổi học thuật tổ chức ở Việt
Nam bằng kinh phí tài trợ của Nhật Bản. Nhưng với tôi, như thế đã là sự may mắn
hiếm có trong đời. Dù không đi theo hướng của thầy trong chuyên môn nghiên cứu,
tôi vẫn nghĩ về thầy như một nguồn lực đã động viên, giúp đỡ tôi vượt qua những
tháng ngày chông chênh nhất để đi tiếp con đường mình đã chọn.
Có một điều thú vị là tôi luôn cảm thấy được chia sẻ
khi trò chuyện với thầy cũng như với các giáo sư người Nhật mà tôi đã quen biết
do gặp gỡ tình cờ. “Chia sẻ” ở đây không chỉ có nghĩa đơn giản là người này tán
thành ý kiến của người kia. Đó là một trạng thái rất dễ chịu khi những người đối
thoại với nhau tự biết rằng mình có thể thẳng thắn và hết lòng trong tất cả những
nội dung phát biểu hay tranh luận. Đặc biệt là sự chia sẻ mà tôi cảm nhận được
trong những lần trò chuyện với giáo sư đã hướng dẫn tôi thực hiện đề tài nghiên
cứu. Điều lạ lùng là với người thầy đã dạy tôi năm thứ ba đại học thì tôi cảm
nhận rằng sự chia sẻ ấy đến từ việc cả hai thầy trò cùng ưu tư về “chuyện nắng
mưa” trên xứ sở “rừng vàng biển bạc”, còn với thầy đã hướng dẫn tôi nghiên cứu
trên đất Nhật thì tôi lại cảm thấy mình được thấu hiểu khi trò chuyện chân
thành với một người nhìn nhận, lắng nghe mình từ nền văn hóa khác.
Thật ra thì chuyện “gặp gỡ từ hai nền văn hóa” ban đầu
quả là thử thách lớn đối với tôi. Tuy có thể nói chuyện với thầy bằng tiếng Nhật
nhưng tôi tự biết mình thuộc loại người “dưới điểm trung bình” về giao tiếp xã
hội, còn thầy lại là vị giáo sư cao tuổi, đĩnh đạc và luôn toát ra vẻ lịch sự,
nghiêm cẩn của văn hóa Nhật Bản truyền thống.
Lúc đầu tôi không hề nghĩ rằng mình vinh dự được thầy
hướng dẫn là do chuyện tình cờ. Ít ra thì chuyện này cũng do sự sắp xếp của người
thầy đang hướng dẫn tôi làm luận án trong chương trình nghiên cứu sinh ở Việt
Nam. Nhưng về sau thì tôi được biết rằng vì có yếu tố tình cờ mà thầy mới quyết
định làm thủ tục đồng ý hướng dẫn tôi trong chương trình nghiên cứu. Đó là do
thời gian thực hiện chương trình mà tôi đề xuất vừa khớp với thời gian thầy còn
làm việc ở trường cho đến lúc nghỉ hưu (nếu dài hơn thì hồ sơ sẽ là không hợp lệ).
Sự trùng hợp ngẫu nhiên này là thông tin rõ ràng vì thầy trực tiếp xác nhận với
tôi. Ngoài ra, tôi không rõ có yếu tố “tình cờ” nào khác hay không mà thầy đã đồng
ý hướng dẫn tôi chỉ mấy tháng sau khi “tuyên bố” sẽ không nhận hướng dẫn bất cứ
người Việt Nam nào nữa!
Không phải thầy có định kiến xấu hay là thiếu thiện
cảm với người Việt Nam. Thậm chí phải nói ngược lại thì mới đúng. Thầy nghiên cứu
văn học Việt Nam, nói sõi tiếng Việt và bày tỏ sự ưu ái với mọi người Việt Nam
trong môi trường giáo dục mà thầy từng quen biết. Chuyện “tuyên bố” nói trên chẳng
qua là do thầy quá thất vọng về một (hay là một trong nhiều) trường hợp học trò
người Việt không giữ lễ với thầy.
Cũng vì cái trường hợp hết sức đáng buồn kia mà tôi
phải chịu thêm áp lực trong khoảng thời gian đầu của chương trình nghiên cứu.
Đã đành là tôi chẳng có gì đáng để thầy tin cậy, nhưng cái cách mà thầy bày tỏ
sự lo lắng cho việc học của tôi càng khiến tôi thêm bối rối, hoang mang. Tuy
nhiên, giờ đây nhớ về những ngày tháng làm việc với thầy như xem lại đoạn phim
rất đẹp trong ký ức, tôi chợt nghĩ rằng có khi nhờ sự lo lắng ấy mà tôi có điều
kiện được chia sẻ với thầy nhiều hơn, sâu sắc hơn nên những cuộc đàm đạo giữa
hai thầy trò cũng ngày càng tự nhiên thoải mái hơn.
Thầy dành thời gian để gặp tôi mỗi tuần, cứ như tôi là
sinh viên chính thức được thầy hướng dẫn làm khóa luận tốt nghiệp. Thậm chí còn
hơn thế. Vì khi trường nghỉ hè thầy vẫn hẹn tôi đến cơ sở vệ tinh ở nội thành
Tokyo để hướng dẫn tôi đọc sách, viết báo cáo và thảo luận. Khi học sinh ở trường
nghỉ Tết, thầy vẫn tranh thủ thời gian làm việc ở phòng nghiên cứu để giúp đỡ
tôi hoàn thành những công việc cuối cùng.
Mỗi lần bước vào phòng nghiên cứu của thầy, tôi đều
nhận được một cốc trà nóng và thơm phức, cứ như tôi vừa đến một quán trà để gặp
gỡ bạn văn, chứ không phải vào phòng nghiên cứu ở một trường đại học để làm việc
với giáo sư hướng dẫn. Những lúc gặp thầy ở cơ sở vệ tinh, thầy còn mang bánh
ngọt đến hội trường – nơi thầy hướng dẫn tôi học tiếng Nhật cổ qua việc đọc tài
liệu, và sau khi xong việc thầy dẫn tôi đi uống cà phê. Chuyện ăn uống chẳng phải
là nhất thiết hay có gì quan trọng. Nhưng nó trở thành chất xúc tác rất tuyệt cho
những cuộc chuyện trò. Nội dung đàm thoại giữa hai thầy trò mỗi ngày càng mở rộng,
từ chuyện nghiên cứu văn chương đến chuyện tôi tìm hiểu văn hóa Nhật, rồi chuyện
đời sống xã hội ở Nhật Bản và ở Việt Nam v.v...
Mỗi khi có kế hoạch đi du lịch, hay vừa thực hiện
xong một chuyến đi, tôi đều thông báo hoặc kể lại với thầy. Phần vì thầy là người
chịu trách nhiệm về tôi với cơ quan tài trợ cho chương trình nghiên cứu. Phần
vì tôi muốn tâm sự với thầy để trao đổi thêm những thông tin có liên quan. Thầy
lo cho tôi nhưng rất nhiệt tình chia sẻ với mỗi chuyến đi mà tôi lựa chọn. Khi
biết tôi sẽ đi leo núi Phú Sĩ, thầy dặn tôi chuẩn bị những gì cần thiết, hỏi
tôi về lịch trình tour rồi bảo rằng với lịch trình như thế, nếu may mắn thì tôi
sẽ được nhìn thấy những tia sáng mặt trời đầu tiên trên đỉnh núi lúc bình minh
mới rạng. Quả thật tôi thấy mình đã gặp nhiều may mắn trong chuyến đi lần ấy,
nhưng khi tôi kể chuyện với thầy và lấy làm lạ lùng vì sự may mắn đó thì thầy lại
nói thật thản nhiên, rằng “sở dĩ như vậy vì em là người tốt”!
Tôi không biết điều gì đã khiến thầy nghĩ về tôi như
thế. Sự có mặt của tôi chỉ khiến thầy phải mất thời gian và lo lắng vì trách
nhiệm mà chẳng mang lại điều gì tốt đẹp cho thầy ở vị trí của một người hướng dẫn.
May ra thì những lần trò chuyện với tôi, đặc biệt là về những vấn đề so sánh giữa
văn học Việt Nam và văn học Nhật Bản, chỉ gợi lên một chút niềm vui vì thầy có
thể chia sẻ được những nội dung nghiên cứu.
Cũng như tôi không hiểu điều gì đã đưa thầy đến với
sự lựa chọn nghiên cứu về đất nước và văn học Việt Nam, để rồi phải vất vả với
việc học tiếng Việt trong những năm 70, khi chiến tranh ở Việt Nam vẫn còn chưa
chấm dứt. Chỉ biết rằng tình cảm của thầy đối với đất nước tôi vẫn không hề
thay đổi dù tai nạn giao thông ở Hà Nội khiến thầy phải bỏ dở kế hoạch nghiên cứu
để quay về Nhật Bản phẫu thuật chân, rồi sau đó vì cái chân không thể phục hồi
như cũ mà thầy phải bỏ hẳn các môn thể thao yêu thích. Có lẽ cũng vì tình cảm bền
bỉ ấy mà sau nhiều lần thất vọng vì ứng xử của học trò người Việt, thầy vẫn đồng
ý tiếp nhận tôi, để lại phải lo lắng vì đề tài nghiên cứu của tôi đòi hỏi nhiều
thời gian chuẩn bị. May mắn làm học trò của thầy, tôi mới dám tin rằng trong cuộc
đời vẫn có những người tốt đến thế, chu đáo và vị tha đến thế! Thầy giống như một
khối pha lê trong suốt để tôi đến soi vào mà thấy rõ những nhọc nhằn của cuộc đời
nghiên cứu, những phiền muộn trong quan hệ giữa con người với con người, những
miền sáng khoảng tối trong văn chương, văn hóa Việt Nam và Nhật Bản.
Chính vì thầy là một người quan sát Việt Nam, suy ngẫm
về Việt Nam từ thực tại của một nền văn hóa khác nên với thầy, tôi có thể bày tỏ
mọi nguồn cơn mưa nắng, về “gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi”, cũng như
thầy có thể trò chuyện thoải mái với tôi về văn hóa, xã hội Nhật Bản và những buồn
vui của thầy trong môi trường làm việc. Sau này, tôi lại có may mắn gặp gỡ và cộng
tác với một giáo sư người Nhật cùng chuyên môn nghiên cứu, cũng có những ngày,
những đêm ngồi nói chuyện “thời sự học thuật” đến quên cả thời gian, nhưng cảm
giác tuyệt vời khi được sẻ chia và thấu hiểu, về cả nội dung nghiên cứu và quan
niệm về đời sống nói chung, thì tôi chỉ có cơ hội duy nhất được trải nghiệm
trong nửa năm học theo sự hướng dẫn của thầy.
Tôi thích khuôn viên đại học là nơi thầy làm việc,
và đặc biệt thích những buổi đến gặp thầy trong phòng nghiên cứu. Hai bên tường
là hai dãy kệ vừa rộng vừa cao đầy ắp những cuốn sách mà tôi thèm được đọc. Từ
chỗ ghế tôi ngồi có thể phóng tầm mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, nơi có một khoảng
vườn rộng như một cánh rừng, cành lá đan vào nhau trên nền trời xanh thẳm, khiến
tôi đã có lần buột miệng nói đùa, rằng “ngồi đây mà ngắm cảnh thì chắc là cũng
làm thơ được đấy”, còn thầy chỉ gật đầu trầm ngâm với gương mặt vừa thoáng một
nét cười, nhưng rồi cũng có hôm chợt rủ tôi đi dạo vì “nhìn ra ngoài cửa sổ thấy
trời thu đẹp quá!”
Có lần đang nói chuyện văn chương và ngôn ngữ, thầy
bỗng nhắc đến cuốn từ điển Việt – Nhật uy tín nhất, là công trình biên soạn
công phu của một nhà Việt Nam học mà thầy kính nể. Thầy cho biết tác giả công
trình ấy phải mất ba mươi năm làm việc để cuốn từ điển được hoàn thành, rồi thầy
bảo tôi cũng nên soạn từ điển Nhật – Việt, soạn một cuốn thật tốt để có thể
dùng làm công cụ học tập và nghiên cứu cho thế hệ đi sau. Mới nghe thầy nói thế,
tôi đã vội vàng rụt cổ, thưa rằng việc ấy quá to tát nên tôi không đủ sức để
làm. Nhưng thầy nghiêm mặt lại mà bảo rằng tôi không được suy nghĩ theo kiểu
đó, rằng đó là trách nhiệm của một người học tiếng Nhật và nghiên cứu ngữ văn,
rằng việc lớn cũng phải cố mà làm thì mới hoàn thành được, vì ai theo đuổi học
thuật cũng phải nghĩ và làm như thế, nếu muốn còn chút gì để lại cho những kẻ hậu
sinh... Những lời nói của thầy đã khiến tôi thật sự cảm thấy rất hổ thẹn, không
chỉ vì mình không đủ sức làm những việc có ích theo đề nghị của thầy, mà chủ yếu
vì nhận ra mình đã quen lối suy nghĩ thiếu trách nhiệm, vì bấy lâu mình nghiên
cứu về Nhật Bản và theo học với thầy mà vẫn không sửa được những cố tật do “vô
thức tập thể” đã thấm vào nếp nghĩ từ lâu!
Và tôi cố gắng để sửa đổi những khuyết điểm của mình
sau mỗi lần “va chạm” theo kiểu ấy. Thầy động viên tôi trong công việc dịch thuật,
gửi cho tôi cả một danh sách những tác phẩm văn học mà thầy nghĩ là nên có bản
tiếng Việt để giới thiệu đến độc giả Việt Nam. Tôi chỉ biết vâng dạ, lòng trĩu
nặng mà tự nhủ rằng mình sẽ nỗ lực hơn nữa trong thời gian sắp tới. Nhưng đúng
là nhờ thế mà sau nửa năm học với thầy, khi trở lại cơ quan để tiếp tục ngụp lặn
trong một chuỗi công việc cứ gối đầu lên nhau để kéo dài ra mãi, tôi vẫn cố
“tranh đấu” với hoàn cảnh, với thời gian, với năng lực kém cỏi và tâm lý trì trệ
của chính bản thân mình để hoàn thành lời hứa với thầy về công trình dịch thuật.
Tôi đã hiểu được rằng dù có phải bỏ ra mười năm, hai mươi năm hay bao nhiêu thời
gian đi nữa, vẫn phải cố gắng làm cho xong một điều gì mang lại ý nghĩa cho
mình và cho nhiều người khác, mà dù không xong được thì bản thân sự nỗ lực cũng
đã là một ý nghĩa rồi. Rằng mình khởi sự làm một công trình lớn không phải là để
nổi tiếng và được người xung quanh ngưỡng mộ, mà là để tạo nên động lực cho cả
một tiến trình, tạo một tiền lệ có tác dụng khuyến khích sự nỗ lực và mạo hiểm
của những người kế tiếp. Những điều ấy tôi biết mình không dễ gì học được dù có
trả bao nhiêu học phí, đọc bao nhiêu sách vở ở những trường đại học chiếm vị
trí hàng đầu trong những bảng xếp hạng ở Bắc Mỹ, châu Âu hay bất cứ nơi nào.
Tôi may mắn học được chỉ vì tôi đã gặp một người thầy nhiệt tình với tôi, hiểu
đất nước tôi, muốn tôi nỗ lực cùng thầy trong hoạt động giao lưu văn hóa và tiến
bộ dần lên trong nghiên cứu, học thuật.
Nhiều lúc tưởng chừng không thể cố gắng nổi, tôi lại
nhớ đến ánh mắt động viên và những lời nói trang nghiêm nhưng ấm áp của thầy,
nhớ gương mặt thầy đầy vẻ cảm thông, nhớ thầy bảo tôi hãy gắng lên nhưng giọng
thầy trầm xuống, cứ như là thầy đang ghé vai đỡ giúp những tảng đá đè nặng lòng
tôi vậy...
Vì được chia sẻ và gắn bó với thầy mà nửa năm tôi ở
Tokyo vèo trôi trong chớp mắt. Thầy cũng tiếc vì thấy tôi có quá ít thời gian,
chỉ biết dặn dò, động viên và trông đợi tôi hoàn thành những công việc còn dang
dở để lại tiếp tục bắt tay vào những kế hoạch mà thầy đã định hướng cho tôi
trong thời gian sắp tới.
Hai ngày trước khi rời Nhật Bản, tôi lên trường trả
lại thẻ thư viện. Tôi đã đi suốt một vòng trên chiếc cầu hình tròn rộng lớn, một
hình ảnh kiến trúc đã từ lâu gắn bó với tên trưởng, để nhìn lại tòa nhà thư viện
và tòa nhà có phòng nghiên cứu của thầy ở tầng 5. Hôm ấy là thứ Bảy nên các ô cửa ở dãy phòng của các giáo
sư đều đóng cửa và buông mành phủ kín. Nhưng tôi vẫn đứng lại nhìn một lúc ô cửa
sổ nằm ở cuối dãy phòng. Tôi thấy mình thật hạnh phúc khi đã có bao nhiêu buổi
chiều nhìn ra khoảng vườn phía sau trường từ ô cửa ấy. Tôi cũng biết rằng chỉ
hai tháng sau khi tôi về nước thì gian phòng nằm ở cuối dãy kia cũng chẳng còn
là không gian làm việc của thầy. Sẽ có một người khác ngồi sau ô cửa đó, và những
cuốn sách khác được bày trên các kệ. Như mọi sự đổi thay vẫn diễn ra nối tiếp
trên đời. Nhưng khoảng thời gian đã trở thành kỷ niệm sẽ ngưng kết thành những
hình ảnh đẹp trong miền ký ức, sẽ tỏa ra hơi ấm để con người còn tìm đến con
người trong hoài cảm, sẻ chia.
Trong nửa năm tạm trú trên đất Nhật, tôi đã
có những chuyến đi thú vị. Những chuyến đi mang lại
cho tôi nhiều gặp gỡ tình cờ. Có những cuộc gặp là bắt đầu cho một tình bạn.
Cũng có cuộc gặp chỉ là một kỷ niệm thoáng qua. Tôi hiểu rằng chuyện tình cờ
hay không chỉ là lúc ban đầu gặp gỡ, còn mọi chuyện sau đó vẫn phụ thuộc vào sự
giao kết giữa hai thế giới tâm hồn. Có nhiều khi kỷ niệm thoáng qua cũng là một
điều hay. Nhưng sự gắn bó tốt đẹp không bao giờ có được nếu những người trong
cuộc không chân thành, không vì nhau hết lòng hết sức. Cho nên, điều may mắn nhất
không phải là mình đã gặp ai đó trong khung cảnh ấn tượng hay tình huống lãng mạn
bất ngờ, mà là những người đã gặp nhau hướng về nhau với tấm lòng chân thật và
rộng mở, với tâm hồn có thể cất giữ hay sẻ chia những điều sâu sắc nhất.
Tôi đã hiểu được rằng dù có phải bỏ ra mười năm, hai mươi năm hay bao nhiêu thời gian đi nữa, vẫn phải cố gắng làm cho xong một điều gì mang lại ý nghĩa cho mình và cho nhiều người khác, mà dù không xong được thì bản thân sự nỗ lực cũng đã là một ý nghĩa rồi.
Trả lờiXóaLà thế bạn ạ. Và may mắn, tôi cho là thế khi trên đời được gặp những bậc Thầy, khiến một đời có "không thành công thì cũng thành nhân (不成功便成仁)", bởi như bạn nói đã hết sức nỗ lực rồi!
Cảm ơn bạn! Mình cũng nghĩ rằng mình đã rất may mắn.
Trả lờiXóaMong đọc những bài mới của bạn.
Trả lờiXóaBạn giới thiệu cho mình vài quyển sách bạn đã dịch - những tác phẩm văn học.
Sách văn học mà mình dịch thì đến nay mới chỉ có 1 cuốn được xuất bản thôi. Đó là cuốn "Gối đầu lên cỏ" của Natsume Soseki. Khoảng 3 năm nay mình tập trung thời gian cho một bộ sách lớn, hy vọng sẽ làm xong trong một vài năm nữa.
Trả lờiXóaCuốn "Gối đầu lên cỏ" in từ năm 2012, có thể bây giờ hơi khó tìm. Nếu bạn không tìm được thì mình gửi cho bạn file bản thảo để đọc tạm.
Cảm ơn bạn nhiều, bạn gởi cho mình file của bạn. Mình chưa về Saigon được. Mình có thấy những lời giới thiệu trên mạng. Khi về sẽ tìm tại các nhà sách sau.
Trả lờiXóaEmail của mình: quachnhientran@gmail.com