Thứ Bảy, 26 tháng 3, 2016

HAI BỘ MÔN QUAN TRỌNG CỦA NGHỆ THUẬT TRUYỀN THỐNG NHẬT BẢN


1. Trà đạo
1.1. Lịch sử phát triển của trà đạo
Cây trà có lẽ vốn có nguồn gốc từ miền núi phía Nam châu Á rồi được mang vào Trung Quốc. Cùng với Phật giáo, trà được du nhập vào Nhật Bản lần đầu tiên từ Trung Quốc vào thế kỷ VI. Tuy nhiên, Thiên hoàng Shomu, trị vì trong khoảng thời gian 724- 749, được ghi nhận là người đã phổ biến việc uống trà khắp nước sau khi được một nhà sư Trung Hoa dâng tặng những gói trà bột. Đồng thời cũng có tài liệu cho rằng người sáng lập trà đạo là nhà sư Muratashu Mitsu.
Trong thời Heian (794- 1185), trà được chế biến bằng cách sấy lá trà rồi nghiền thành bột. Loại trà bột này được gọi là matcha và hiện nay vẫn còn được sử dụng.
Vào thế kỷ XV, Juro Murata, thầy dạy trà đạo cho Tướng quân Yoshimasa Ashikaga, đã đưa những phạm trù thẩm mỹ như wabi, sabi vào những nghi thức trong trà đạo.
Trà đạo phát triển dưới sự ảnh hưởng của Phật giáo Thiền tông, mà mục tiêu chủ yếu là thanh lọc tâm hồn bằng cách hòa nhập với thiên nhiên. Linh hồn của lễ trà được thể hiện bằng những từ như bình thản, mộc mạc, thanh nhã, chân phương, giản dị. Lễ trà được tổ chức khác nhau theo mùa, với sự lựa chọn tương ứng những dụng cụ như tách uống trà, loại trà, hoa và tranh cuộn treo tường phù hợp với từng thời điểm.
Những quan niệm của Phật giáo Thiền tông trong trà lễ càng được nhấn mạnh hơn bởi Sen no Rikyu (1522- 1591), vị trà sư uy tín nhất ở Nhật Bản. Trong thời Momoyama vào nửa cuối thế kỷ XVI, Rikyu đã tổ chức lễ trà trong không khí đơn sơ và tĩnh lặng. Nghi lễ này vẫn được giảng dạy và thực hành trên khắp thế giới hôm nay. Ông cũng đã thiết kế một kiến trúc riêng biệt, đơn giản để tổ chức lễ trà theo kiểu của một gian nhà thô sơ điển hình ở nông thôn Nhật Bản. Rikyu còn nghi thức hóa những nguyên tắc của lễ trà trong việc ứng xử đồng thời khắc họa diện mạo tinh thần của trà đạo với quy tắc về bốn tiêu chuẩn hài hòa, trang nghiêm, thuần khiếttĩnh lặng theo tinh thần Phật giáo. Những quy tắc hướng dẫn này thể hiện ở mức cao nhất về mặt tư tưởng của lễ trà.
1.2. Những đặc trưng quan trọng của trà đạo
Trà thất (茶室): là một gian nhà nhỏ được dựng biệt lập trong vườn dành riêng cho việc tổ chức lễ trà. Đường dẫn đến trà thất thường là một lối đi rải sỏi, hai bên có trồng hoa và cây cảnh để tăng cảm xúc về thẩm mỹ và sự thanh tịnh cho khách đến dự lễ trà. Trà thất của những gia đình giàu có và địa vị thường gồm ba phòng với các chức năng khác nhau. Phòng thứ nhất là nơi tổ chức trà đạo, phòng kế tiếp là nơi đặt các dụng cụ pha trà. Phòng thứ ba được bố trí tách rời với hai phòng trên, dùng làm nơi nghỉ ngơi cho khách.
Phòng tổ chức uống trà được bố trí đơn giản. Trong phòng luôn có treo một bức tranh sơn thủy vẽ theo phong cách hội họa truyền thống Nhật Bản, thường là tranh của các danh họa. Trên những bức tranh này thường có đề thơ, nên được gọi chung là thư họa. Bên cạnh đó, còn có bình hoa được trưng bày theo phong cách của nghệ thuật cắm hoa Nhật Bản, thường chỉ có một bông hoa được cắm rất tự nhiên. Vẻ giản dị và thô mộc của trà thất (cũng là của ngôi nhà Nhật Bản truyền thống) cho phép một sự tập trung hoàn toàn vào bông hoa duy nhất hoặc bức tranh cuộn được lựa chọn cẩn thận theo mùa.
Ở chính giữa phòng trà có đặt một lò than chế bằng đồ đất nung để đun sôi nước và một ấm để pha trà, phía trước lò than đặt bát trà và các loại dụng cụ uống trà. Những đồ uống trà cần phải thích ứng theo từng mừa trong năm và là những món đồ quí của từng thời đại lịch sử khác nhau. Bộ đồ trà phải thô, nặng có men màu cam hoặc đen đậm dáng vẻ cổ kính.
Nội dung lễ trà:
Thời gian tổ chức lễ trà: 7 giờ sáng, 8 giờ sáng, 12 giờ trưa và 6 giờ tối. Khách mời đến trà thất đúng giờ, gõ vào chiếc chuông gỗ báo hiệu đã đến. Chủ nhà nghe tiếng chuông sẽ từ phòng trà ra đón khách. Trước cửa phòng trà có đặt một chiếc cối đá đựng đầy nước, khách phải rửa sạch tay trước khi vào phòng. Khách tháo giày tại cửa ra vào của phòng tổ chức lễ trà, khi bước vào phòng phải khom mình tỏ ý khiêm tốn. Nếu khách là võ sĩ thì phải tháo kiếm trước mới được bước vào để biểu thị không khí hòa bình. Trong số khách, người tinh thông trà đạo được cử làm người chủ trì. Người chủ trì phải cạo trọc đầu để biểu thị sự sạch sẽ, thanh khiết.

Toàn bộ quá trình một cuộc uống trà cần từ 3 đến 4 giờ đồng hồ, chia thành bốn giai đoạn (4 bước). Bước thứ nhất gọi là "hoài thạch", sau khi những người khách đã an vị, chủ nhà sẽ mời khách những món ăn điểm tâm. Món điểm tâm này hết sức tinh tế phải được làm với hình thức phù hợp theo mùa. Chẳng hạn, nếu tổ chức lễ trà vào mùa thu thì món điểm tâm phải làm giống như lá phong hoặc hoa cúc. Bước thứ hai là "trung lập": khách dùng món điểm tâm xong sẽ đi xuống trà đình và ngồi nghỉ ở đó. Bước thứ ba là "ngự toà nhập", lúc này khách sẽ được dâng trà đặc. Bước thứ tư là "dùng trà loãng". Ngày nay lễ trà thường được đơn giản hoá đến mức chỉ còn bước thứ tư.
Có hai cách pha trà: pha đặc và pha loãng. Trà đặc thông thường ba người thay nhau uống một bát, mỗi người ba hớp rưỡi hết 1/3 bát. Trà loãng mỗi người uống riêng một bát. Trà đặc có màu xanh đậm, hương thơm hơi chát. Chủ nhân múc hai muôi gỗ trà cho vào bát, đổ nước sôi, dùng que trúc khuấy đều để trà có nước đặc như bột đậu. Bát đầu tiên mời người chủ trì, người chủ trì nâng bát trà ngang trán rồi mới uống. Khi uống phải chép miệng để tỏ ý thực sự được thưởng thức trà ngon của chủ nhân. Khi tất cả khách uống xong thì nghi thức trà đạo cũng kết thúc.
Các trường phái trà đạo: Trà đạo đã hình thành nhiều trường phái khác nhau, chủ yếu có ba trường phái lớn là: Risenka, HyosenkaBushakoro Senka. Mỗi nhà đều theo chế độ gia truyền - tức là con thường kế nghiệp bố làm người chủ trì trà đạo của gia đình đó.
Những quy tắc trong trà đạo:
Bốn qui định là: hoà, kính, thanh, tịch. Hoà là hoà mục, kính là tôn kính với người khác, thanh là thuần khiết u tĩnh. tịch là làm cho tinh thần ý tứ trầm lắng an tĩnh, gạt bỏ dục vọng, thanh thản.
Bảy qui tắc là:
·        Độ đậm của trà phải vừa miệng.
·        Độ to của lửa vừa phải.
·        Tuỳ theo thời tiết bốn mùa mà để cho độ nóng của trà vừa phải thích ứng.
·        Hoa cắm để trang trí trong phòng phải tươi mới.
·        Người đến thưởng trà phải đến sớm hơn một chút (thông thường khách được mời phải đến sớm hơn trước từ 20 đến 30 phút so với thời gian mời).
·        Bất luận là trời có mưa hay không cũng phải mang theo áo mưa.
  • Cần quan tâm tới khách một cách chu đáo, kể cả khách của khách.
Tóm lại, trong toàn bộ diễn biến của một cuộc trà, từ lúc bắt đầu đến khi kết thúc cần phải quán xuyến tinh thần đầm ấm hoà hoãn thân mật và đem lễ nghi để đãi khách, đó là phong cách của dân tộc Nhật Bản.
Do đó có thể thấy, trà đạo bao gồm những nhân tố nghệ thuật, triết học, đạo đức, là một con đường để làm gia tăng tình cảm hữu nghị, thân thiết giữa bạn bè, chủ khách... Đó cũng là lí do khiến trà đạo Nhật Bản cớ cơ sở xã hội lớn đến như vậy và ngày nay nó vẫn thịnh hành.

2. Hoa đạo ()

2.1. Sự ra đời và phát triển của nghệ thuật cắm hoa

Từ Ikebana có nghĩa là "hoa tươi" nhưng cũng có nghĩa là “sắp đặt hoa”. Ikebana thường được dịch sang tiếng Việt là “nghệ thuật cắm hoa” nhưng ý nghĩa của từ này không chỉ là việc sắp đặt những bông hoa vào lọ theo các phương pháp hay kiểu cách nào đó mà còn là triết lý của người Nhật Bản về thiên nhiên và vũ trụ thông qua hoa như một hình ảnh tượng trưng.
Người Nhật đã biết đến hoa từ thời cổ đại, nhưng họ chỉ chiêm ngưỡng vẻ đẹp của hoa như một bộ phận của tự nhiên. Từ thế kỷ VI khi Phật giáo được du nhập vào Nhật Bản, hoa chủ yếu được dùng để cúng Phật. Trong thời gian này việc cắm hoa còn được thực hiện rất đơn giản, hoa được cắm thành từng bó cùng loại đặt trên bàn thờ. Dần dần, việc cắm hoa thay đổi theo hướng cắm nhiều hoa vào cùng một lọ nhưng các bông hoa đều phải hướng theo một trục. Cách cắm này được gọi là rikka hay tatebana. 
Sau đó, hình thức này được thay thế bằng những cành hoa thấp hơn, nhưng cách bố cục kiểu rikka vẫn tiếp tục là hình thức cắm hoa chủ đạo trong các chùa, đền đến cuối thế kỉ VII. Trong bố cục của bình hoa cắm theo kiểu này, cành lá có kích thước lớn (thông thường là cành thông, tùng, bách hay tre, trúc) là trục chính của bố cục và bông cúc trắng có một vị trí đặc biệt. Kiểu rikka được sử dụng phổ biến trong một thời gian dài, từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XIV.
Bước sang nửa sau thế kỉ XV, khi Trà đạo phổ biến trong xã hội thì việc cắm hoa được nâng lên thành nghệ thuật- hoa đạo. Trong thời kỳ này các bình cắm hoa được dùng để trang trí văn phòng hay trà thất. Trong ngôi nhà truyền thống của người Nhật có thiết kế một góc nhỏ là tokonoma dành riêng để đặt lọ hoa, được xem là chỗ đẹp và trang trọng nhất trong nhà. Do gắn liền với nghệ thuật uống trà, hoa đặt trong trà thất thường được cắm theo bố cục tự nhiên, từ đó hình thành lối cắm hoa mới gọi là nageire. Dù phương pháp này cũng cho phép tỉa bớt những cành lá thừa nhưng phải theo nguyên tắc các cành không được nương tựa vào nhau mà phải đứng độc lập một cách tự nhiên.
Vào thế kỉ XX, đặc biệt từ thời Taisei (1912-1926) xuất hiện thêm một kiểu cắm hoa mới chịu ảnh hưởng của phong cách phương Tây là phương pháp moribana. Kiểu này thích hợp hơn với khung cảnh nội thất châu Âu vì sử dụng loại bình đáy thẳng miệng thấp, song do biết hoàn thiện những nét chưa đẹp của hai kiểu trên nên đã mô phỏng dược những cảnh quan thiên nhiên cụ thể của Nhật Bản, do đó đã thành công hơn và được nhiều người ưa chuộng. Phương pháp này cho phép dùng cả các loại cây lá không có hoa. Vì bình thấp nên phải sử dụng bàn chông để giữ cho cành lá đứng ở tư thế cần thiết. Hoa cắm theo kiểu này thường được sử dụng trang trí văn phòng, phòng khách và phòng ngủ trong những ngôi nhà hiện đại có nội thất kiểu phương Tây.
2.2. Những nguyên tắc quan trọng của nghệ thuật cắm hoa
Việc cắm hoa của người Nhật không phải là một hình thức dùng hoa để trang trí mà là nghệ thuật biểu hiện thế giới quan, nhân sinh quan thông qua những bông hoa. Vì vậy, dù có nhiều kiểu cắm hoa nhưng tất cả đều phải tuân thủ những nguyên tắc chung nhất định. Những nguyên tắc của nghệ thuật cắm hoa thể hiện rõ nét tư tưởng Thiền trong đời sống văn hóa Nhật Bản. Chính những nguyên tắc đã làm nên nét đặc trưng của nghệ thuật cắm hoa Nhật Bản, làm cho nghệ thuật này khác hẳn với phong cách cắm hoa trang trí trong văn hóa phương Tây.

Nguyên tắc quan trọng nhất của nghệ thuật cắm hoa là nguyên tắc tượng trưng. Trong bình hoa phải có những cành chính tạo nên đường nét căn bản, tượng trưng cho Trời, NgườiĐất. Cành chính có chiều dài lớn nhất là cành chỉ Trời, đảm bảo độ vững chắc cho bình hoa. Độ cao của cành Trời được lựa chọn theo công thức sau: độ cao bằng độ sâu cộng một lần rưỡi đường kính miệng bình. Cành thứ hai kế bên tượng trưng cho Người nằm ở tư thế gợi cảm, cùng nghiêng về một phía và có chiều dài bằng 2/3 cành Trời. Cành còn lại phía bên kia. Ngoài ra có thể điểm thêm cành cây, cọng cỏ khác nhưng phải giữ nguyên hướng của ba cành chính, khi nhìn vào thấy như ba cái tán của một cành vậy.
Nghệ thuật cắm hoa Nhật Bản lấy 3 đường sau đây làm căn bản trong cách trưng bày: trời, người và đất. Đường chính- dành cho cành chỉ trời thường được gọi là đường gốc, hay shin. Đó chính là cành tạo nên cái nền cho bình hoa; vì vậy, cành này phải đủ vững chãi. Kế bên đường chính là cành thứ 2, tượng trưng cho người (soe). Cành này phải cắm ở tư thế gợi cảm tưởng đang “mọc” sang phía bên kia. Cành “người” phải cao chỉ bằng 2/3 cành “trời” và cùng nghiêng về một phía với cành “trời”. Cành thứ 3 tượng trưng cho “đất” (tai), cao chỉ bằng 2/3 cành “người” và nghiêng về phía ngược với 2 cành trên[1].
Do tuân thủ nguyên tắc tượng trưng nên người Nhật thường cắm hoa theo khuynh hướng bất đối xứng, khác hẳn với cách cắm hoa đối xứng của phương Tây. Cách chọn loại hoa và số lượng hoa để cắm cũng rất đặc biệt. Vì người Nhật quan niệm điều quan trọng nhất của việc thưởng thức hoa là hiểu được quá trình biến đổi, từ lúc đâm nụ cho đến khi ra hoa và tàn úa theo vòng sinh hóa của tự nhiên nên hoa được chọn cắm thường là hoa hàm tiếu thay vì hoa mãn khai rực rỡ. Hoa được cắm trong trà thất có khi chỉ là một bông hoa dại nở trong vườn nhà, vì vai trò của bình hoa trong nghệ thuật uống trà là gợi cho khách tham dự lễ trà nhớ đến nhịp sống của tự nhiên và thể hiện phong cách thẩm mỹ của chủ nhân nên không nhất thiết phải là hoa đắt tiền mới thể hiện sự quý phái.
2.3. Các kiểu cắm hoa phổ biến
Có 3 trường phái cắm hoa ở Nhật Bản.
Trường phái quy cách Shin có lối cắm hoa thẳng đứng trong các bình bằng đồng đặt trên chiếc giá bằng gỗ tếch được trạm trổ tinh tế.
Trường phái Gyo là trường phái bán quy cách, theo lối cắm với đường nét chảy dài và sử dụng nhiều loại bình cắm khác nhau.
Trường phái So, một trường phái bất quy cách, cắm hoa trong các giỏ, bình bằng tre, bằng gỗ và sứ đặt trên các đế bằng tre hay bằng gỗ thiên nhiên.
Cả 3 trường phái đều sử dụng ba cành hoa chính với độ dài khác nhau để đạt được sự cân đối không đối xứng và tác dụng của không gian ba chiều. Cả ba trường phái đều diễn đạt bằng biểu tượng mối quan hệ giữa trời, đất, và người.

Kiểu rikka:
Ấn tượng mà kiểu rikka tạo ra là sự rộng lớn khoáng đạt, thanh tú và nổi bật. Sự sắp xếp cơ bản của ba cành tạo thành khung cho những cánh hoa. Những cành hoa này thường cân đối và to lớn về tỉ lệ. Một bình hoa rikka trung bình có kích thước từ 3 đến 5 lần chiều cao hoặc chiều rộng của bình cắm. Một khi chiều dài của cành hoa chính đã được định, những cành hoa còn lại được cân đối theo tỉ lệ với cành chính đó. Một bình hoa rikka cắm xong sẽ có dạng hình cầu với không gian rất lớn.

Kiểu nageire:
Nageire là kiểu cắm hoa tùy cảm hứng, bất quy tắc. Do đó, kiểu nageire cho người ta cảm giác thanh thoát, tự nhiên. Kiểu cắm này cần bình cao và những vật đỡ để giữ những cành hoa. Cành hoa chính có thể bằng hoặc gấp đôi chiều cao cộng thêm một lần chiều rộng của bình. Cành thứ hai bằng ba phần tư chiều dài cành chính và cành thứ ba bằng ba phần tư cành thứ hai.
Kiểu shoka:
Kiểu cắm shoka cổ điển có nét dài và hẹp, sử dụng tối đa hai loại vật liệu. Kiểu cắm shoka hiện đại thường có ba loại vật liệu. Đây là một trong những kiểu cắm hoa lâu đời nhất trong nghệ thuật cắm hoa.

Kiểu shoka sử dụng ba cành chính cắm vươn lên từ miệng bình như theo khuynh hướng hợp nhất. Theo thiết kế này, không có tàn lá nào trong khoảng từ 7 đến 10 cm từ miệng bình trở lên. Các cành được giữ bởi một loại vật đỡ đặc biệt. Hoa được tập trung vào cành thứ ba.
Kiểu moribana:
Kiểu cắm moribana không sử dụng trong các nghi thức tôn giáo, và nó cũng không thể hiện biểu tượng gì của đạo đức, triết lí. Khi thực hiện cắm hoa kiểu moribana, người cắm sẽ dựa vào bình cắm hoặc vật liệu để đưa ra thiết kế. Kiểu cắm này dựa trên nghệ thuật không đối xứng, tạo cho người xem có cảm giác về chiều sâu và sự khao khát.


[1] Sđd, tr. 292- 293

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét