Genji monogatari là một tác phẩm xuất sắc, một thành tựu lớn
và mang tính đột biến của văn học monogatari Nhật Bản thời Heian. Được bảo tồn
và lưu truyền qua nhiều giai đoạn trong lịch sử, Genji monogatari không chỉ gây ra sự ngạc nhiên xen lẫn cảm
giác thích thú ở độc giả thông thường hay thái độ trân trọng, cảm phục trong giới
văn nhân, nhà nghiên cứu mà bên cạnh đó, sự ra đời và tồn tại của tác phẩm còn
gây nhiều thắc mắc, đặt ra cho người tiếp nhận nhiều câu hỏi về nguồn gốc phát
sinh và tư tưởng nghệ thuật của thành tựu văn học đặc biệt này. Vì vậy việc tiếp
nhận và nghiên cứu Genji monogatari
phải gắn liền với việc tìm hiểu và lý giải về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
1.
Genji monogatari: sự kết tinh của yếu tố
nội sinh và ngoại nhập trong văn hóa Nhật Bản thời Heian
Trước hết, hoàn cảnh ra
đời của Genji monogatari được hiểu
theo nghĩa rộng là bối cảnh văn hóa – xã hội thời Heian mà trung tâm là tư tưởng,
lối sống của tầng lớp quý tộc ở kinh đô. Điều này đã được nhà nghiên cứu Okano
Hirohiko trình bày một cách cô đọng trong công trình「日本の心と源氏物語」(Tâm hồn Nhật Bản và Genji monogatari):
Bối
cảnh ra đời của tác phẩm là đời sống cung đình mà trung tâm là Thiên hoàng, xã
hội quý tộc và xã hội nữ quan thời Murasaki Shikibu. Nói cách khác, cần phải biết
rằng Genji monogatari đã ra đời trong bối cảnh lịch sử mà trong đó dòng họ
Fujiwara có thế lực chính trị vô cùng lớn kể từ thời kỳ Manyoshu và văn học chữ
kana mà nữ giới có vai trò trung tâm đang nở rộ với những thành tựu xuất sắc[1].
Thời Heian kéo dài gần
400 năm từ cuối thế kỷ VIII đến cuối thế kỷ XII, khi triều đình của Thiên hoàng
Nhật Bản đóng đô tại kinh thành Heian (khu vực trung tâm của Kyoto ngày nay). Đây
là thời kỳ Nhật Bản vừa hoàn thiện hệ thống chính trị trung ương tập quyền, đã
thiết lập chế độ quản lý trên mọi lĩnh vực từ trung ương đến địa phương, lại sẵn
có vị trí của một quốc đảo độc lập và tinh thần học tập thành tựu văn minh từ lục
địa Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên nên con đường phát triển đang rộng mở.
Một trong những nguồn lực
quan trọng dẫn đến sự bừng nở văn hóa nghệ thuật thời Heian là việc tiếp thu
văn hóa, văn học Trung Quốc thời Đường và việc sử dụng văn tự kana. Việc tiếp
nhận và chịu ảnh hưởng của thơ Đường thể hiện rõ qua sự xuất hiện những nhà thơ
nổi tiếng về Hán thi, thường là những nhà quý tộc lớn vốn thông tuệ về Hán học.
Bên cạnh đó, tiểu thuyết truyền kỳ đời Đường khi tiếp xúc với văn hóa Heian
cũng để lại ít nhiều ảnh hưởng đến tiến trình phát triển của thể loại
monogatari. Đặc biệt, việc hoàn thiện hệ chữ kana việc sử dụng phổ biến mẫu tự
này trong thế giới của phụ nữ quý tộc đã thúc đẩy sự phát triển của thơ waka và
là điều kiện quan trọng dẫn đến sự ra đời của dòng văn học nữ lưu, nở rộ với
nhiều thành tựu lớn, tạo nên vẻ đẹp nữ tính, diễm lệ đặc trưng cho nền văn hóa
– văn học thời kỳ này.
Là một tác phẩm lớn, tiêu
biểu cho tinh thần văn hóa – nghệ thuật thời Heian, Genji monogatari phản ánh tất cả những nội dung tiếp thu văn hóa
như vậy. Nhưng điều thú vị là tác phẩm này lại có một vẻ đẹp rất riêng, rất đặc
trưng cho tâm hồn Nhật Bản chứ không phải chỉ là sản phẩm thô sơ, sống sượng của
một quá trình giao lưu văn hóa. Hơn nữa, văn học Nhật Bản từ khởi thủy đã có
khuynh hướng, diện mạo riêng, thể hiện tinh thần nghệ thuật độc đáo của người
Nhật Bản và do vậy rất khác so với tinh thần văn học Trung Quốc cùng thời. Điều
này thể hiện rõ trong tập thơ quốc âm đầu tiên của Nhật Bản là Manyoshu. Vì vậy, có thể nói rằng đối với
sự ra đời của Genji monogatari, sự tiếp
thu văn minh nhà Đường và văn học cổ điển Trung Quốc chỉ có ý nghĩa là sự bổ trợ
công cụ, chất liệu cho quá trình sáng tác, còn về mặt ý thức thẩm mỹ, tư tưởng
nghệ thuật thì Genji monogatari vẫn
là thành tựu lớn của văn học Heian, mà trước hết là sản phẩm của không gian văn
hóa cung đình.
Một trong những nét đặc
biệt của văn hóa cung đình thời Heian là sự tồn tại một thế giới riêng của nữ
giới quý tộc. Họ xuất thân từ những gia đình có thế lực, được hậu thuẫn tốt về
kinh tế và được giáo dục tốt để có thể thuần thục những nghi lễ trong đời sống
cung đình, có thể thưởng thức văn học cổ điển Trung Quốc và có thể làm thơ waka
đối đáp trong những hoạt động giao tiếp thông thường. Đây là thời kỳ mà ý thức
thẩm mỹ Nhật Bản phát triển rực rỡ, cái đẹp được trân trọng và có ý nghĩa rất lớn
trong đời sống nói chung và đặc biệt trong quan hệ giao tiếp, nên nữ giới quý tộc
thường dành nhiều thời gian, công sức cho việc trau dồi cảm quan thẩm mỹ. Có thể
nói rằng trong thời Heian, phụ nữ quý tộc được sinh ra và lớn lên trong đời sống
phồn vinh, tao nhã và chính trong môi trường đó, tinh thần duy mỹ truyền thống
của văn hóa Nhật Bản đã cộng hưởng với thiên tính nữ để tạo nên vẻ đẹp tinh tế,
diễm lệ trong thế giới nghệ thuật và sinh hoạt cung đình. Đó là thời kỳ mà các
loại hình nghệ thuật như âm nhạc, hội họa đều phát triển mạnh mẽ, trở thành một
phần không thể thiếu trong đời sống của xã hội quý tộc. Việc làm thơ waka tặng
đáp đã trở thành một tập quán giao tiếp thể hiện nét phong nhã đặc trưng của
văn hóa thời Heian, đặc biệt trong tình yêu nam nữ. Những đặc trưng này đều được
thể hiện rõ trong nội dung Genji
monogatari. Trong tác phẩm, tình yêu nam nữ được thể hiện chủ yếu qua những
bài thơ waka đối đáp trong những bức thư mà các nhân vật gửi cho nhau. Cả người
gửi và người nhận đều chú ý và cẩn trọng trong từng nét chữ, từng từ ngữ đầy ý
vị đã được chọn lọc tinh tế để trao gửi tâm tình. Bên cạnh đó, qua các chương「紅葉の賀」Lễ hội mùa lá đỏ,「花の宴」Lễ hội hoa đào,「絵合」Cuộc thi tranh,
tác giả đã miêu tả một cách sinh động việc tổ chức những sự kiện để thưởng thức
cái đẹp của tự nhiên và nghệ thuật trong đời sống cung đình. Khu dinh thự bề thế
của Hikaru Genji cũng được miêu tả công phu với khu vườn có vẻ đẹp của thiên
nhiên luân chuyển bốn mùa và những cuộc trình diễn, thưởng thức nghệ thuật đậm
chất phong lưu, cao nhã.
Chính sự tồn tại của thế
giới nữ lưu quý tộc đã tạo nên vẻ đẹp nữ tính của văn hóa, văn học thời Heian.
Trong khi nam giới quý tộc dùng chữ Hán như một công cụ chính thức trong công
việc ở triều đình, coi trọng kiến thức Hán học và tài năng làm thơ chữ Hán thì
nữ giới sử dụng chữ kana để làm thơ waka và viết nhật ký, tùy bút. Nhờ đó mà thời
kỳ này nở rộ những thành tựu của thể loại tản văn, gắn liền với tên tuổi của những
cây bút nữ, tạo nên một không khí sôi nổi trong sáng tác với vẻ đẹp thanh tao,
uyển chuyển rất đặc biệt của dòng văn học nữ lưu. Điều quan trọng là văn học Nhật
Bản tuy có chịu ảnh hưởng của văn học cổ điển Trung Quốc nhưng từ khởi nguyên
đã phát triển theo một hướng tư tưởng độc lập, không có sự phân biệt các tác phẩm,
tác giả hay thể loại văn học theo trật tự cao thấp, hoặc hoặc phân biệt theo kiểu
phân chia những sáng tác văn học thành hai dòng chính thống và phi chính thống.
Vì vậy, trong khi việc dùng Hán tự và làm thơ chữ Hán phổ biến trong giới quan
lại ở triều đình thì thơ waka vẫn phát triển theo một nguồn mạch không thay đổi
từ thời Manyoshu, và những tác phẩm
văn học viết bằng chữ kana do nữ giới sáng tác vẫn được đánh giá cao, được phổ
biến rộng rãi và thậm chí được cả thiên hoàng quan tâm thưởng thức. Bầu không
khí rộng mở, chan hòa trong sáng tác và thưởng thức văn nghệ đã trở thành nguồn
mạch tinh thần cho sự bừng nở của những ngòi bút tài hoa, đặc biệt là những cây
bút nữ xuất thân từ những gia đình có địa vị cao, có ý thức thẩm mỹ và năng khiếu
văn chương để hòa mình vào thế giới của cái đẹp tao nhã trong đời sống cung
đình.
Trong vấn đề này, cần
phải nói rằng phong tục hôn nhân trong xã hội quý tộc thời Heian cũng là một điều
kiện cho sự phát triển của văn học nghệ thuật trong thế giới phụ nữ. Theo phong
tục hôn nhân của thời kỳ này thì phụ nữ sau khi kết hôn thường vẫn ở tại nhà bố
mẹ, hoặc ở một nơi nhất định nào đó và người chồng chỉ đến thăm chứ không hoàn
toàn chung sống như một gia đình, mà người vợ cũng không phải đến gia đình bên
chồng làm dâu như hình thức hôn nhân phụ hệ phổ biến ở Đông Á thời phong kiến.
Trong Genji monogatari, cuộc hôn nhân
giữa Hikaru Genji và nàng Aoi cũng diễn ra theo hình thức như vậy.
Kiểu cách đặc biệt của
phong tục hôn nhân trong xã hội quý tộc thời Heian không gây cảm giác nặng nề
cho nữ giới vì không có sự ràng buộc hay áp đặt từ phía gia đình người chồng,
nhưng mặt khác lại đưa người phụ nữ vào một tình huống hơi kỳ lạ. Với hình thức
này, phụ nữ đã kết hôn vẫn ở trong tình thế bị động, không thể xây dựng một cuộc
sống tình cảm theo mong muốn mà chỉ có thể chờ đợi những cuộc thăm viếng từ
phía người chồng. Theo nhà nghiên cứu Tsujimoto Hiroshige thì hiện nay người ta
vẫn không khẳng định được chế độ hôn nhân thời Heian là một vợ một một chồng
hay là chế độ độ đa thê[2],
nhưng chắc chắn là nam giới trong thời kỳ này thường có nhiều tình nhân ngoài vợ
chính thức, và trong nhiều trường hợp thì mối quan hệ vợ chồng sau hôn nhân chỉ
tồn tại về hình thức mà không có sự gắn bó trong tình cảm. Tình trạng đó được
phản ánh một cách chi tiết và chân thật nhất trong「蜻蛉日記」Nhật ký phù du
– một tác phẩm thuộc dòng văn học nhật ký thời Heian (không rõ tên tác giả, chỉ
biết rằng người viết là mẹ của Fujiwara Michitsuna, thuộc dòng họ Fujiwara danh
tiếng). Có thể hiểu rằng cuộc sống ảm đạm và trống trải của phụ nữ quý tộc
trong tình trạng hôn nhân thăm viếng cũng là một trong những điều kiện để nữ giới
thời kỳ này tham gia vào hoạt động sáng tác văn chương.
Khác với nam giới thường
có khuynh hướng dùng con đường sáng tác để bày tỏ chính kiến về những vấn đề
chính trị - xã hội hoặc thể hiện tầm vóc tri thức về Hán học và văn chương cổ
điển, nữ giới sáng tác chủ yếu để giải bày tâm trạng, tình cảm cá nhân và những
cảm nhận về cuộc sống xung quanh trong những khoảnh khắc rung động vì cảm xúc
thẩm mỹ, nên dễ hình dung rằng họ sẽ chọn loại văn tự mềm mại, uyển chuyển phù
hợp với văn hóa truyền thống Nhật Bản và hình thức tản văn như nhật ký, tùy
bút, monogatari để có thể biểu hiện cảm xúc một cách dàn trải, nhẹ nhàng với nhịp
điệu thong thả, khoan thai và nội dung tự do, linh hoạt. Vì vậy, không phải ngẫu
nhiên mà trong thời Heian, việc dùng chữ kana để viết tản văn rất phổ biến
trong thế giới của phụ nữ quý tộc ở cung đình.
Nói đến thế giới của phụ
nữ quý tộc thời Heian cũng không thể bỏ qua sự tồn tại của một thành phần đặc
biệt được gọi là “nữ quan”. Họ trước hết phải là những phụ nữ xuất thân từ gia
đình có thế lực, có mối quan hệ gần gũi với hoàng tộc và thường là người thân của
các cung phi. Sống trong không gian văn hóa thấm nhuần ý thức thẩm mỹ và có nhiều
thời gian rỗi dành cho đời sống tinh thần, các công chúa hoặc cung phi trong thời
kỳ này cần đến sự chia sẻ của những phụ nữ gần gũi với mình về địa vị và trình
độ văn hóa để trau dồi cảm quan thẩm mỹ bằng hoạt động sáng tác, biểu diễn và
thưởng thức nghệ thuật. Và nữ quan là những phụ nữ quý tộc được tuyển vào cung
để đảm nhận vai trò ấy, sống bên cạnh những công chúa hoặc những cung phi có địa
vị vững chắc và trình độ thẩm mỹ cao. Hai nữ sĩ nổi tiếng của dòng văn học nữ
lưu thời Heian là Murasaki Shikibu và Sei Shonagon đều là nữ quan trong thời
gian trị vì của thiên hoàng Ichijo và phát triển phần lớn sự nghiệp văn chương
trong thời gian đảm nhận chức danh này. Sự tập hợp của các nữ quan bên cạnh những
phụ nữ trong hoàng tộc đã tạo ra một hình thức sinh hoạt văn nghệ độc đáo: “Đặc biệt ở thời Heian, những phòng khách văn
chương của các nữ quan tập hợp quanh hoàng hậu Teishi, phòng khách văn chương của
các nữ quan tập hợp quanh cung phi Akiko hay những nhóm sinh hoạt ở đền Kamo có
sự cạnh tranh độc đáo với nhau về thành tựu văn học”[3].
Một trong những công việc
mà nữ quan đảm nhận là đọc truyện cho công chúa hoặc cung phi nghe. Công việc
này đòi hỏi nữ quan phải có khả năng đọc truyện một cách diễn cảm, sử dụng lối
phát âm, ngắt câu sao cho giọng đọc phát ra phải có nhịp điệu trầm bổng, ngân
nga và thể hiện được nội dung câu chuyện một cách sinh động. Lối đọc này trong
tiếng Nhật gọi là “yomikatari”, nghĩa là “đọc – kể”. Theo nhà nghiên cứu
Orikuchi Shinobu và Matsuda Yoshiyuki thì việc đọc sách như vậy không đơn giản
là một cách tiêu khiển trong lúc nhàn rỗi mà là một hình thức giáo dục tinh tế
để rèn luyện vẻ đẹp tâm hồn bằng con đường cảm nhận và thẩm thấu: “Những nữ quan có trình độ văn hóa cao, bằng
việc đọc lên những truyện kể xen lẫn những bài thơ có sức lay động mạnh mẽ, đã
mở rộng tâm hồn cao nhã ở các nàng công chúa. Đó là một truyền thống nuôi dưỡng
tâm hồn Nhật Bản, mà Orikuchi gọi là “giáo dục thẩm thấu tâm hồn””[4].
Tuy rằng theo quan niệm
mang tính khuôn mẫu của nam giới trong xã hội quý tộc – như được phản ánh trong
tác phẩm Genji monogatari – thì truyện
kể hư cấu chỉ là những câu chuyện bịa đặt nằm ngoài lĩnh vực của sử sách chính
thống, nhưng theo tư liệu nghiên cứu nói trên thì những truyện kể thuộc thể loại
monogatari đã thâm nhập sâu vào đời sống cung đình, gắn bó với thế giới của phụ
nữ quý tộc trong quá trình rèn luyện tâm hồn và phát triển cảm quan thẩm mỹ, do
đó đã được giới quý tộc đương thời tiếp nhận với thái độ trân trọng và tâm thế
hào hứng thường có khi thưởng thức nghệ thuật. Đó là môi trường tư tưởng và
không gian văn hóa có ý nghĩa quan trọng đối với sự ra đời của Genji monogatari, và là một yếu tố không
thể bỏ qua khi tìm hiểu bối cảnh ra đời của tác phẩm này.
2.
Genji monogatari trong tiến trình phát
triển của văn chương tự sự monogatari
Từ nội dung trên, có thể
nói rằng sự tồn tại của tầng lớp nữ quan gắn liền với hình thức giáo dục đặc biệt
dành cho nữ giới có địa vị cao bằng cách đọc – kể những tác phẩm văn xuôi tự sự
trong không gian văn hóa quý tộc thời Heian có ý nghĩa quan trọng đối với sự
phát triển của thể loại monogatari ở thời kỳ này. Tên gọi “monogatari” – có
nghĩa là “kể chuyện về sự vật” – cũng thể hiện hình thức tồn tại của loại hình
văn xuôi tự sự trong bối cảnh văn hóa nói trên, và hình thức tồn tại ấy đã tạo
nên những đặc trưng thể loại, từ hình thức đến nội dung tác phẩm. Do đó, các
nhà nghiên cứu Nhật Bản luôn quan niệm rằng: để lý giải đúng đắn giá trị nghệ
thuật cũng như nội dung những tác phẩm văn học thời Heian, cần phải tìm hiểu
tác phẩm trong bối cảnh ra đời của nó. Hướng tiếp cận này đặc biệt cần thiết
cho việc nghiên cứu những tác phẩm lớn và phức tạp như Genji monogatari.
Một đặc điểm quan trọng
của Genji monogatari – cũng là đặc điểm
thường thấy ở các tác phẩm thuộc thể loại monogatari nói chung – là sự tập
trung thể hiện về tình yêu và quan hệ nam nữ, đúng như nhận xét của nhà nghiên
cứu Okano Hirohiko: “Trong Genji
monogatari không hề có chuyện chiến tranh hay những việc làm to tát của nam giới
trên bình diện chính trị, mà chủ yếu chỉ có những truyện kể nối tiếp nhau về
tình yêu nam nữ”[5].
Nhìn vào tiến trình lịch sử của văn học Nhật Bản từ khởi thủy sẽ thấy đây là đặc
điểm phổ biến của văn học cổ điển Nhật Bản, thể hiện trong cả hai lĩnh vực là
truyện kể và thơ, nhưng đặc biệt rõ nét trong thế giới thần thoại. Nói cách
khác, sự thể hiện tình yêu nam nữ trong văn học cổ điển Nhật Bản là một quá
trình liên tục từ thế giới thần thoại trong giai đoạn cổ sơ đến thế giới
monogatari của giai đoạn vương triều. Từ đặc điểm này, có thể thấy rằng thế giới
thần thoại Nhật Bản cũng là một nguồn mạch quan trọng cho sự ra đời và phát triển
của thể loại monogatari.
Thần thoại ở các nước
Đông Á hầu như đều là những chuyện kể về quá trình dựng nước. Đây cũng là chủ đề
chính của hệ thống thần thoại Nhật Bản, được tập hợp lại trong bộ sách ra đời sớm
nhất ở Nhật Bản là Kojiki. Tuy nhiên, nói đến thần thoại Nhật Bản cũng không thể
bỏ qua một điểm thú vị rằng, đây thực sự là những câu chuyện lãng mạn, đầy chất
thơ về thế giới của các vị thần. Ngoài hệ thống những câu chuyện nối tiếp nhau
kể về quá trình hình thành nên đảo quốc xinh đẹp giữa trùng dương sóng nước, từ
lúc hai vị thần từ thiên cung bay xuống đại dương cho đến khi thiên hoàng đầu
tiên của hoàng tộc Nhật Bản là Jinmu Tenno ra đời, thần thoại Nhật Bản còn có rất
nhiều câu chuyện về tình yêu và quan nệ nam nữ, từ thế giới ban sơ chỉ có thần
linh cho đến khi con người xuất hiện và hòa lẫn vào thế giới của các vị thần.
Đó là những câu chuyện thú vị và thể hiện đậm nét tính cách vốn có ở con người
như chuyện về tình yêu và sự kết hợp một cách tự nhiên của hai vị thần đầu tiên
là Izanagi và Izanami, chuyện thần Okuninushi kết hợp với nữ thần Suseri Hime của
xứ Izumo, chuyện cô gái giàu tình cảm là Isukeyori Hime cầu hôn thiên hoàng
Jinmu, chuyện ghen tuông của nàng Ohokisaki Hime – hoàng hậu của Thiên hoàng
Nintoku, chuyện thần Ninigi kết hôn với công chúa hoa, con gái của thần núi
Oyamatsumi, chuyện giận dữ của nữ thần Amaterasu và thái độ khiêu khích của nữ
thần Ame
no Uzume[6]
v.v… Chỉ cần đọc một số truyện chính của hệ thống thần thoại Nhật Bản đã có thể
thấy đó là một thế giới khoáng đạt, trong đó tình yêu và quan hệ tính dục giữa
nam và nữ diễn ra một cách tự nhiên và có phần phóng túng, chan hòa cùng không
gian rộng mở và phong nhiêu của đảo quốc tươi đẹp mới hình thành.
Sự tồn tại của những
câu chuyện thần thoại và cổ tích bằng hình thức truyền miệng trong cộng đồng đã
dẫn đến sự ra đời của khái niệm “monogatari” trong thời kỳ khởi nguyên của văn
học Nhật Bản, với nghĩa rộng nhất là chuyện kể, hay là việc kể lại những câu
chuyện về sự vật, sự việc. Theo tư liệu nghiên cứu về lịch sử phát triển của thể
loại monogatari thì trước khi có những truyện kể phổ biến, có cấu trúc hoàn chỉnh
và còn được lưu truyền đến ngày nay như Taketori
monogatari hay Ise monogatari,
trong tiếng Nhật còn có cách gọi “katarigoto” – nghĩa là “những chuyện được kể”
– để chỉ chung các loại truyện kể dân gian như thần thoại, cổ tích hay truyền
thuyết[7].
Theo tiến trình phát
triển chung của nền văn học, nội dung của truyện kể thay đổi theo hướng ngày
càng gần gũi với đời sống thế tục của con người, giảm bớt những yếu tố hoang đường
của thế giới thần linh. Những truyện kể đầu tiên có tên gọi “monogatari”, mà
tiêu biểu là Taketori monogatari và Ise monogatari, tuy được xếp vào dòng văn học viết bằng chữ kana nhưng vẫn còn mang
đậm tính chất của truyện kể dân gian, đặc biệt là những tình tiết hoang đường
như trong thần thoại và cổ tích. Điều đáng chú ý là những truyện này vẫn nối tiếp
tinh thần của thần thoại Nhật Bản từ thời Kojiki,
chủ yếu là truyện kể về tình yêu và quan hệ nam nữ[8].
Là sự nối tiếp lịch sử
phát triển của văn học monogatari thời Heian và cũng là thành tựu đỉnh cao của
thể loại này, Genji monogatari đã
không thể không chịu ảnh của truyện cổ Nhật Bản và những tác phẩm “monogatari”
ra đời trước đó. Rất nhiều công trình nghiên cứu về Genji monogatari đã chỉ ra mối liên hệ giữa nội dung tác phẩm này với
những truyện kể như Taketori monogatari,
Ise monogatari, Utsuho monogatari[9].
Nhận xét về vị trí của Genji monogatari
trong truyền thống văn học Nhật Bản từ khởi thủy, nhà nghiên cứu Okano Hirohiko
có viết:
Để
biết được người Nhật Bản nghĩ về Genji monogatari như thế nào, dĩ nhiên cũng phải
xem xét đến vấn đề Murasaki Shikibu đã dày công tạo nên những đóng góp mới mẻ,
biểu đạt và xây dựng tác phẩm theo một hình thức đặc biệt có những yếu tố giống
như tiểu thuyết, nhưng nếu nhìn vào cả tiến trình rộng lớn thì không thể không
nghĩ đến dòng văn học phát triển từ thế giới của Kojiki và Manyoshu, trong đó
nhiều tác phẩm còn được lưu truyền dưới dạng thơ choka[10]
và mang những đặc điểm của loại hình monogatari[11].
Nhận xét trên đã nêu ra
một vấn đề quan trọng trong việc nghiên cứu Genji
monogatari, đặc biệt là nghiên cứu về mặt thể loại hay tính văn học, giá trị
thẩm mỹ của tác phẩm. Nếu hiểu Genji
monogatari như là câu chuyện về những nhân vật lịch sử hoặc nếu áp đặt kiểu
tư duy nghệ thuật của tiểu thuyết gia hiện đại trong việc hiểu và phân tích tác
phẩm này thì sẽ hiểu sai về tác phẩm, đồng thời sẽ không lý giải được cách cấu
tứ, biểu đạt mà tác giả đã lựa chọn để xây dựng nên tác phẩm này. Nói một cách
cụ thể, để tìm hiểu tư duy nghệ thuật thể hiện ở Genji monogatari, phải hiểu được khởi nguồn và thi pháp chung của
thể loại monogatari trong văn học cổ điển Nhật Bản. Vì ra đời từ nguồn mạch văn
chương monogatari, rất gần gũi với thế giới thần thoại đậm màu sắc tình yêu
trong tinh thần khao khát cuộc sống và cái đẹp nên Genji monogatari mới đầy ắp những chuyện tình, trình hiện cả một thế
giới phức tạp của mối quan hệ muôn đời giữa nam và nữ nhưng lại không đơn giản
chỉ là chuyện kể về cuộc đời đắm sắc của một chàng hoàng tử giống như nhân vật
Don Juan trong văn học phương Tây:
Nhân
vật chính của tác phẩm (Hikaru Genji) đã có tình cảm với nhiều phụ nữ xinh đẹp
giỏi giang, và gắn bó với họ bằng tình cảm mãnh liệt. Nếu chỉ nhìn vào câu chuyện
như thế thì khó mà chấp nhận theo quan điểm đạo đức hiện nay, nhưng thực ra thì
Hikaru Genji mang bóng dáng của những nhân vật chính trong những truyện kể dân
gian như thần thoại, truyền thuyết vốn được lưu truyền từ lâu trong đời sống
người Nhật. Và vì lẽ đó mà chuyện các nhân vật nữ gắn bó với chàng có ý nghĩa
quan trọng[12].
Về vấn đề này, nhà
nghiên cứu Suzuki Hideo cũng cho rằng, nét đặc trưng của nhân vật Hikaru Genji
là sự thể hiện tính cách “irogonomi”. Nhân vật này có sức hấp dẫn đối với người
khác giống như những anh hùng hay những vị thần cổ xưa trong Kojiki. Điều đó tạo nên sức thu hút đặc
biệt đối với những người phụ nữ xung quanh chàng. Sự rung động sâu sắc trong
tâm hồn những người phụ nữ có tình cảm đối với Hikaru Genji đã làm phát sinh cảm
thức mono no aware, là trạng thái cảm xúc chủ đạo được miêu tả nhiều lần trong
tác phẩm[13].
3.
Genji monogatari và thế giới waka cổ điển
Vì là một tác phẩm trường
thiên về tình yêu nam nữ nên nội dung Genji
monogatari có xen lẫn nhiều thơ tanka. Đó cũng là một sự phản ánh đặc trưng
của văn học cổ điển Nhật Bản, xuất phát từ mối liên hệ giữa quan niệm truyền thống
của người Nhật về thơ ca – đặc biệt là ý thức thẩm mỹ Nhật Bản về vẻ đẹp của
thơ waka - và cách biểu đạt của những tác phẩm văn học viết về tình yêu nam nữ.
Thơ waka ra đời rất sớm
trong lịch sử văn học Nhật Bản, và cũng như thần thoại hay truyền thuyết, có
vai trò quan trọng trong việc bày tỏ và nuôi dưỡng cảm quan thẩm mỹ của người
Nhật. Trước hết, trong ý thức văn học Nhật Bản truyền thống thì thơ waka phát
sinh từ sự rung động trong tâm hồn, và cũng là một cách một hình thức biểu hiện
phù hợp nhất về sự rung động ấy. Mà trong những tình huống rung động tình cảm ở
con người thì cảm xúc trong tình yêu nam nữ là trường hợp xảy ra nhiều nhất. Vì
vậy, rất dễ thấy rằng thơ waka là thế giới của phong phú của tình yêu. Từ thời Manyoshu đến Kokinshu rồi Shinkokinshu[14],
đã có vô số bài thơ tình ngâm vịnh về mọi cung bậc cảm xúc trong tình yêu nam nữ.
Đặc biệt vào thời Heian, thơ waka mang vẻ đẹp tao nhã đặc trưng của văn hóa
cung đình, và là được giới quý tộc sử dụng như một phương tiện thẩm mỹ để kết nối
tình cảm, trong trường hợp cần bày tỏ cảm xúc của bản thân mình hay muốn làm
rung động tình cảm ở đối phương. Thế giới trong Genji monogatari là thế giới đầy cảm xúc, tâm trạng trong tình yêu
nên tác phẩm cũng là một kho tàng những bài tanka đẹp. Vì vậy, nếu nói rằng sự
ra đời của Genji monogatari gắn với
những truyện kể tình yêu trong thần thoại, thì cũng có thể nói Genji monogatari ra đời trong hương vị
ngọt ngào và sâu đậm của waka. Thậm chí trong giới nghiên cứu đã có nhận xét
thú vị rằng vẻ đẹp của Hikaru Genji rất giống với vẻ đẹp của thơ waka[15],
nghĩa là ở nhân vật có sức mạnh nội tại làm lay động trái tim con người.
Nói sự ra đời của Genji monogatari gắn với thế giới thơ
waka thời Heian không có nghĩa đơn giản là có một số lượng lớn thơ waka xuất hiện
trong tác phẩm do các nhân vật trong truyện ngâm vịnh, đối đáp và thư từ cho
nhau bằng thơ waka theo phong tục của giới quý tộc đương thời. Thật ra, về vấn
đề này phải hiểu rằng Genji monogatari
ra đời trong bối cảnh thấm đẫm tinh thần mỹ học của thơ waka như vậy, nên Genji monogatari là một truyện kể mang
tinh thần nghệ thuật waka. Trong văn học Nhật Bản có một số tác phẩm văn xuôi –
kể cả tiểu thuyết hiện đại như một số tác phẩm của Kawabata Yasunari vả Natsume
Soseki – rất giàu chất thơ và phần nào sử dụng thi pháp của thơ ca trong nghệ
thuật biểu đạt, nên trong tiếng Nhật có những cách nói như “tiểu thuyết haiku”
(nghĩa chính xác trong tiếng Nhật là “tiểu thuyết mang tính chất haiku) để diễn
tả sự kết hợp đặc biệt này. Genji
monogatari cũng là một trường hợp “tản văn mang tính chất thi ca” như thế.
Vấn đề này sẽ trở nên dễ
hiểu khi nghĩ đến một thực tế là, thơ ca (từ ca dao dân gian đến waka) và thần
thoại vốn có mối quan hệ gắn bó với nhau từ giai đoạn khởi nguyên của văn học
Nhật Bản. Từ xưa, việc ca hát và ngâm thơ đặc biệt gắn bó với sinh hoạt của người
Nhật Bản, đặc biệt trong những sinh hoạt liên quan đến quan hệ nam nữ và tình
yêu đôi lứa. Đặc điểm này thể hiện rõ ngay trong tuyển tập đầu tiên của thơ ca
Nhật Bản là Manyoshu, nên trong giới
nghiên cứu đã có nhận xét rằng: “Ca dao cổ đại Nhật Bản có một số
lượng lớn về thơ luyến ái, khác với Kinh Thi của Trung Quốc nhiều hàm ý chính
trị, cũng như khác với cả nội dung dân ca Omorosohi của quần đảo Okinawa”[16].
Sở dĩ như vậy là vì người Nhật vốn quan niệm rằng thơ ca là sự khởi phát tự
nhiên của tình cảm con người, có năng lực đặc biệt để cảm hóa và làm lay động
tâm hồn người khác[17],
nên nam nữ yêu nhau thường dùng thơ ca để bày tỏ tình cảm và chinh phục tâm hồn
đối phương. Thần thoại Nhật Bản nói nhiều về sự chinh phục tình cảm, sự kết hợp
lứa đôi nên thế giới của thần thoại cũng tràn ngập thơ ca. Nói đúng hơn là thần
thoại và thơ ca hòa quyện vào nhau, tạo nên một thế giới tươi tắn và nồng nàn của
tình yêu nam nữ. Dòng văn học monogatari ra đời từ sự kết hợp độc đáo này, nên
ở Genji monogatari vừa có những nhân
vật nổi bật như những hình ảnh cao đẹp của những vị thần hay những con người ưu
tú trong thần thoại, lại vừa thể hiện được nỗi bi cảm của đời người như cảm xúc
thẩm mỹ trong thơ waka.
Nếu hiểu được bối cảnh ra đời của Genji monogatari với những yếu tố cơ sở về ý thức thẩm mỹ và lịch
sử văn học, sẽ biết được sự kết hợp nói trên trong hình thức truyện kể
monogatari thời Heian và từ đó sẽ lý giải đúng tư tưởng, cấu tứ của tác phẩm
này, vốn là một thách thức lớn đối với người đọc hiện đại, đặc biệt là người
đọc xuất thân từ một truyền thống văn hóa ngoài Nhật Bản. Ở đây, chỉ cần đưa ra
một ví dụ dễ thấy nhất về nội dung chính của tác phẩm Genji monogatari. Nhiều người đọc hiện đại cảm thấy khó hiểu vì sao
tác giả lại xây dựng hình tượng nhân vật chính là một chàng hoàng tử có tài
năng và phẩm chất tốt đẹp nhưng lại có một cuộc đời tình ái quá phóng túng, và
tại sao rất nhiều phụ nữ quyền quý xung quanh, với hoàn cảnh sống chừng như
toàn vẹn, không thể cưỡng lại được sức hấp dẫn ở chàng. Nếu hiểu văn học
monogatari từ khởi nguồn tư tưởng và cấu tứ, người đọc sẽ nhận ra đây là câu
chuyện về quy luật tình cảm gắn với định mệnh của con người. Vẻ đẹp và sức
quyến rũ của Hikaru Genji là một sức mạnh nội tại tỏa ra từ bản thân chàng, gắn
chàng vào đời sống cung đình đầy khắc nghiệt bằng khả năng thu hút tình cảm
những người xung quanh. Nhưng bản thân nhân vật này cũng vì tình cảm gắn bó với
những người phụ nữ mà gặp bao phiền muộn. Đó là một phần bản năng ở mỗi con
người, là động cơ đưa mỗi cá nhân vào hành trình trải nghiệm cuộc sống để nhận
ra những mâu thuẫn cố hữu giữa lòng đam mê vô hạn và sự ngắn ngủi, bất toàn của
đời sống nơi trần thế, giữa ý thức về quy chuẩn đạo đức – xã hội và những khao
khát không thể chế ngự trong tình cảm. Đó cũng là nguồn gốc phát sinh cảm thức
mono no aware – cảm thức thẩm mỹ chủ đạo của thơ waka truyền thống. Trên thực
tế, sẽ khó mà hiểu được những điều trên nếu không tìm hiểu cấu tứ của tác phẩm
trong mối quan hệ với cơ sở tư tưởng của dòng văn học monogatari. Nói cách
khác, cần phải hiểu tính chất của “tiểu thuyết waka” ở Genji monogatari mới có thể lý giải đúng đắn những giá trị biểu đạt
của tác phẩm.
Nói tóm lại, việc tìm hiểu bối cảnh ra đời của Genji monogatari là một vấn đề hết sức
quan trọng, không chỉ trong phạm vi nghiên cứu tác phẩm này mà còn là con đường
nghiên cứu văn học Heian nói chung. Lịch sử nghiên cứu văn học Nhật Bản đến nay
đã cho thấy rằng, hiểu đúng một tác phẩm phức tạp và độc đáo như Genji monogatari là việc không đơn giản.
Một mặt, tác phẩm này có một số phận may mắn khi ra đời và tồn tại trong tinh
thần duy mỹ và hoài cổ của người Nhật Bản, được đánh giá cao, được tiếp thu
nồng nhiệt và được giữ gìn trân trọng qua nhiều thời kỳ lịch sử, từ thế kỷ XI
đến nay. Mặt khác, trong quá trình tiếp nhận lâu dài như vậy, đã có những đánh
giá, những cách hiểu không thỏa đáng về tác phẩm này, chủ yếu do xuất phát từ
cái nhìn thiên về quan niệm đạo đức – xã hội. Bên cạnh đó, cho đến nay vẫn còn
những vấn đề chưa tìm được lời giải đáp mang tính toàn diện và thật sự thuyết
phục về sự nở rộ của dòng văn học nữ lưu thời Heian, trong đó có sự xuất hiện
của Genji monogatari như một thành
tựu đột biến về văn xuôi tự sự trong tiến trình phát triển của thể loại này
trên toàn thế giới. Những nhận xét đơn giản và phiến diện, xem Genji monogatari chỉ là một câu chuyện
kể về một “Don Juan Nhật Bản” có nguyên mẫu là hoàng tử Takaakira, hoặc là sản
phẩm của sự tiếp thu văn học Trung Quốc thời Đường mà chủ yếu và chịu ảnh hưởng
từ Trường hận ca của Bạch Cư Dị đều
không phải là kết quả của quá trình nghiên cứu nghiêm túc và hướng giải quyết
đúng đắn cho vấn đề xác định giá trị nghệ thuật, giá trị tư tưởng ở Genji monogatari. Vì vậy, các giáo sư,
học giả có uy tín trong giới nghiên cứu Nhật Bản đã chủ trương tìm hiểu Genji monogatari nói riêng và văn học nữ
lưu thời Heian nói chung trên cơ sở hiểu biết sâu sắc về bối cảnh văn hóa của
thời kỳ này, gắn liền với tư tưởng thẩm mỹ và quan niệm văn học truyền thống,
khởi nguyên từ ca dao và thần thoại. Với cách tiếp cận này, nhiều nhà nghiên
cứu đã đưa ra những khám phá mới mẻ và những nhận xét hợp lý về Genji monogatari. Mới mẻ vì đưa người
đọc thoát khỏi những quan niệm cứng nhắc, khuôn mẫu trước đây đã từng chi phối
việc nghiên cứu tác phẩm này, và hợp lý là vì từ những nhận xét đó, người đọc
không chỉ hiểu về Genji monogatari
như một tác phẩm độc lập mà còn hiểu được tinh thần văn học Nhật Bản nói chung,
nhờ đó có thể làm sáng tỏ những thắc mắc thường gặp về cách thể hiện thế giới
quan, nhân sinh quan độc đáo của người Nhật trong văn học – những yếu tố làm
cho người tiếp nhận đến từ một nền văn hóa khác thường cho là mơ hồ và khó
hiểu.
Kết luận
Từ những nội dung trên, có thể nói rằng để hình thành nên
một tác phẩm văn học lớn, có cấu tứ tinh tế và phức tạp như Genji monogatari, ngoài tài năng thiên
bẩm và trình độ học thức của tác giả cũng phải kể đến vai trò của không gian
văn hóa thời Heian, sự đóng góp của những di sản văn học ở thời kỳ trước đó,
hay là tinh thần tiếp nối của ý thức văn học Nhật Bản từ lúc khởi sinh. Đó là
một bối cảnh phức tạp, tổng hợp nhiều yếu tố bên ngoài và bên trong, quá khứ và
hiện tại trong một khoảng thời gian tương đối dài, trong không gian của xã hội
quý tộc có vẻ khép kín nhưng lại có một độ mở nhất định nhờ con đường giao lưu
văn hóa. Nói một cách cụ thể thì bối cảnh này là sự hòa quyện của màu sắc tình
yêu trong thần thoại với niềm bi cảm của thơ waka, là sự phát triển cấu tứ
truyện kể trên cơ sở truyện cổ dân gian, những tác phẩm monogatari ra đời trước
đó và một số truyện truyền kỳ đời Đường, kết hợp tinh thần duy mỹ của xã hội
quý tộc và tình yêu thiên nhiên trong truyền thống Nhật Bản với ý thức về vẻ
đẹp tráng lệ của văn hóa thời Đường, thổi vào tác phẩm bầu không khí phóng
khoáng và diễm lệ của Đường thi để hình thành nên một Genji monogatari vừa rộng mở vừa tinh tế, mang tầm vóc của văn minh
Đông Á nhưng vẫn toát ra vẻ đẹp độc đáo của văn học Nhật Bản. Cơ sở hình thành
như vậy mở ra một viễn cảnh thú vị nhưng cũng đầy khó khăn cho công việc nghiên
cứu, lý giải tác phẩm này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng
Anh
1.
David Pollack, “Informing Image “China” in Genji Monogatari”, Monumenta
Nipponica, Vol. 38, No. 4 (Winter,
1983), pp. 359 – 375, Sophia University,
http://www.jstor.org/stable/2384634.
2. Douglas E. Mills, “Popular Elements in Heian Literature”,
The Journal – Newsletters of the
Associtation of Teachers of Japanese, Vol. 3, No. 3 (Apr., 1966), pp. 38 –
41, Associtation of Teachers of
Japanese, http://www.jstor.org/stable/488747.
3. Donald Keene (2004), Murasaki
Shikibu’s The Tale of Genji (Edited and with an introduction by Harold
Bloom), Chelsea House Publisher.
4.
Harold Bloom (edited) (2004), Murasaki Shikibu’s the Tale of Genji, Chelsea House Publishers,
Philadelphia.
5. Haruo Shirane, “The
Aesthetics of Power: Politics in The Tale of Genji”, Harvard Journal of Asiatic Studies, Vol. 45, No. 2 (Dec., 1985), pp. 615 – 647,
Havard-Yenching Institute,
http://www.jstor.org/stable/2718974.
6. J. M. Maki, “Lady Murasaki and the Genji Monogatari”, Monumenta Nipponica, Vol. 3, No. 2
(Jul., 1940), pp. 480 – 503, http://www.jstor.org/stable/2382593.
7. Leon Zolbrod, “The Four – Part Structure of the Tale of
Genji”, The Journal of the Associtation
of Teachers of Japanese, Vol. 15, No. 1 (Apr., 1980), pp. 22 – 31,
Associtation of Teachers of Japanese, http://www.jstor.org/stable/488975.
8. Murasaki Shikibu (1980), Genji monogatari – Translated with an Introduction by Edward G.
Seidensticker, Alfred A. Knopf , New York.
9. Richard Bowring (2004), Murasaki Shikibu – The Tale of Genji, Cambridge University Press.
Tiếng Nhật
10. 阿部秋生 Abe Akio (1974), 『源氏物語の研究』
(Nghiên cứu Genji monogatari), 東京大学出版.
11. 秋山虔 Akiyama Ken (2011), 『源氏物語の論』(Bàn về Genji monogatari), 笠間書院.
12. 秋山虔編集 Akiyama Ken (biên soạn) (1978), 『日本文学全史』2中古 (Lịch sử văn học Nhật Bản, Tập
2 – Thời trung cổ), 学燈社.
13. 伊井春樹 Ii Haruki (1980),『源氏物語注釈史の研究』(Nghiên
cứu lịch sử chú giải Genji monogatari),
桜楓社.
14. 池田亀鑑
Ikeda Kikan (1947),『源氏物語に関する論考』(Khảo luận về Genji monogatari), 目黒書店.
15. 稲賀敬二Inaga Keiji (1977),『源氏物語の研究―成立と伝流』(Nghiên cứu Genji
monogatari – Vấn đề hình thành và lưu truyền tác phẩm), 笠間書院.
16. 稲賀敬二 Inaga Keiji (1982),『源氏の作者―紫式部』(Tác giả Genji – Murasaki Shikibu),
新典社.
17. 加納重文 Kano Shigefumi (1987),『げんじものがたりのはなし』(Câu chuyện về
Genji monogatari), 和泉書院.
18. 松岡継雄 Matsuoka Tsuguo (1989), 『源氏物語の背景』 (Bối cảnh của Genji
monogatari), 城野印刷所.
19. 紫式部 Murasaki Shikibu
(1992), 『源氏物語』(Genji monogatari), 山岸徳平校注(Yamagishi Tokuhei chú giải), 岩波書店.
20. 紫式部 Murasaki Shikibu
(1980),『源氏物語』円地文子の全訳 (Bản dịch toàn văn Genji
monogatari của Enchi Fumiko, 5 tập), 新潮文庫.
21. 紫式部 Murasaki Shikibu
(2009),『源氏物語』与謝野晶子の全訳 (Bản dịch toàn văn Genji
monogatari của Yosano Akiko, 5 tập), 角川書店.
22. 紫式部 Murasaki Shikibu
(2007),『源氏物語』瀬戸内寂聴の全訳 (Bản dịch toàn văn Genji
monogatari của Setouchi Jakucho, 10 tập), 講談社文庫.
23. 南波浩 Namba Hiroshi (1971),『物語文学』(Văn học monogatari), 三一書房.
24. 岡野弘彦 Okano Hirohiko (2010), 『日本の心と源氏物語』
(Genji monogatari với tâm hồn Nhật Bản),
思文閣出版.
25. 清水好子 Shimizu
Yoshiko (1980), 『源氏物語の文体と方法』
(Ngôn ngữ và phương pháp trong Genji
monogatari), 東京大学出版.
26. 鈴木日出男 Suzuki Hideo
(2003), 『源氏物語虚構論』(Bàn
về
nghệ thuật hư cấu của Genji monogatari),
東京大学出版.
27. 鈴木日出男 Suzuki Hideo
(1998), 『源氏物語への道』 (Con đường dẫn đến
Genji monogatari), 小学館.
28. 日本文学研究資料叢書『源氏物語Ⅰ―Ⅳ』(Tổng tập nghiên cứu văn học Nhật Bản, phần tổng hợp các bài
nghiên cứu về Genji monogatari tổng cộng
4 tập), 有精堂, 1972.
[2]
辻本裕成
(Tsujimoto
Hiroshige),『源氏物語の男女関係・結婚・性のあり方』(Hình thức quan hệ nam
nữ, hôn nhân và giới tính trong Genji
monogatari) in trong「源氏物語研究集成第十二巻―源氏物語と王朝文化」(Tập hợp các bài nghiên cứu Genji monogatari, quyển 12 – Genji
monogatari và văn hóa vương triều), 風間書房, 2001, tr. 41-42.
[4]松田義幸 (Matsuda Yoshiyuki),『民俗学から読む『源氏物語』』(Đọc Genji monogatari từ quan điểm nghiên cứu dân gian), in trong 岡野弘彦 (Okano Hirohiko), 「日本の心と源氏物語」(Tâm hồn Nhật Bản và Genji monogatari), 思文閣出版, 2009, tr. 146.
[6]
Một số
truyện cổ Nhật Bản trong số này đã được dịch và giới thiệu trong sách Đoàn Nhật
Chấn, Truyện cổ nước Nhật và bản sắc dân
tộc Nhật Bản, NXB Văn học, TP.HCM, 1996.
[8]
Taketori monogatari là câu chuyện kể về nàng tiên
xinh đẹp giấu mình trong đốt tre, được hai vợ chồng ông cụ làm nghề đốn tre
phát hiện, mang về nhà làm con nuôi. Vì rất xinh đẹp nên cô gái này được rất
nhiều người cầu hôn, trong số đó có cả nhà vua và nhiều quý tộc đang là những vị
quan lớn tại triều đình. Ise monogatari
là tập hợp những câu chuyện ngắn được viết bằng thơ waka, kể về cuộc đời tình
ái của một nhân vật nam không rõ danh tính. Cả hai truyện này đều xuất hiện vào
thời Heian, khoảng thế kỷ X.
[9]
Có thể
xem những nội dung này trong các sách nghiên cứu tiêu biểu như南波浩 (Namba Hiroshi),「物語文学」(Văn học
monogatari), 三一書房, 1971; 鈴木日出男, (Suzuki Hideo),「源氏物語の虚構論」(Bàn về nghệ thuật hư cấu trong Genji monogatari),
東京大学出版会, 2003; 岡野弘彦 (Okano Hirohiko), 「日本の心と源氏物語」(Tâm hồn Nhật Bản và Genji monogatari), 思文閣出版, 2009.
[13]鈴木日出男, (Suzuki Hideo),「源氏物語の虚構論」(Bàn về nghệ thuật hư cấu trong Genji monogatari),
東京大学出版会, 2003, tr.8.
[14]
Các tuyển
tập thơ waka được biên soạn theo sắc lệnh của triều đình, nối tiếp nhau từ thời
Nara đến thời Kamakura.
[15]鈴木日出男, (Suzuki Hideo),「源氏物語の虚構論」(Bàn về nghệ thuật hư cấu trong Genji monogatari),
東京大学出版会, 2003, tr. 87.
[16]
Nhận xét
của Kato Shuichi, dẫn lại theo Nguyễn Nam Trân, Tổng quan lịch sử văn học Nhật Bản, NXB Giáo dục, 2011.
[17]
Những ý
này thường được trình bày trong lời đề tựa các tập thơ quốc âm cổ điển như Manyoshu, Kokinwakashu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét