Sato
Toshiyuki- Giáo sư Đại học Hiroshima
1. Mở đầu
Ở Nhật Bản, do sử
dụng nguyên dạng văn tự được du nhập từ Trung Quốc để ghi tiếng
Nhật nên không có hệ thống chữ viết riêng. Tuy nhiên, cùng với việc sáng tạo ra chữ kana
trên nền tảng Hán tự, người Nhật đã tạo ra nhiều chữ Kanji, vốn không có trong hệ thống chữ Hán của Trung Quốc, gọi là chữ “quốc ngữ”.
Nhật nên không có hệ thống chữ viết riêng. Tuy nhiên, cùng với việc sáng tạo ra chữ kana
trên nền tảng Hán tự, người Nhật đã tạo ra nhiều chữ Kanji, vốn không có trong hệ thống chữ Hán của Trung Quốc, gọi là chữ “quốc ngữ”.
Người ta thường
cho rằng số lượng chữ quốc ngữ là 400 hoặc 500 chữ. Những chữ Kanji
dưới đây là do người Nhật tạo ra, nên dĩ nhiên là chỉ có cách đọc theo âm kun mà không có
cách đọc theo âm on.
dưới đây là do người Nhật tạo ra, nên dĩ nhiên là chỉ có cách đọc theo âm kun mà không có
cách đọc theo âm on.
峠
(touge- đèo) 凪 (nagi- lặng gió) 畑
(hatake- ruộng nương) 辻 (ngã tư đường) 凩 (gió
lạnh cuối thu) 働 (hataraku- lao động) 鰯(iwashi- cá iwashi) 鱈 (tara- cá tara) 鯑(kazunoko- cá kazu con)
2.
Chữ
Kanji do người Nhật tạo ra (quốc ngữ)
Chỉ có chữ hataraku được giới thiệu trên đây có
cách đọc theo âm on là dou, nhưng cũng
là cách đọc hiếm khi sử dụng. Mới đây, tôi được biết rằng những chữ quốc ngữ như thế này
cũng được sử dụng ở Trung Quốc và cũng có hiện tượng thêm cách đọc âm on cho những chữ Kanji vốn không có cách đọc này.
là cách đọc hiếm khi sử dụng. Mới đây, tôi được biết rằng những chữ quốc ngữ như thế này
cũng được sử dụng ở Trung Quốc và cũng có hiện tượng thêm cách đọc âm on cho những chữ Kanji vốn không có cách đọc này.
Cách gọi là “quốc
ngữ” đã được Arai Hakuseki (1657- 1725) sử dụng. Có thể tìm thấy cách
dùng từ “quốc ngữ” trong sách “Đồng văn thông khảo” tập 4 của Hakuseki như trong đoạn văn sau:
dùng từ “quốc ngữ” trong sách “Đồng văn thông khảo” tập 4 của Hakuseki như trong đoạn văn sau:
Văn
tự của nước Nhật được sử dụng trong thời Kotoku (650- 665), với bộ sách do Nho
sĩ và quan lại soạn theo sắc lệnh, có tựa là “Văn tự mới”, gồm 44 quyển. Sách
này không rõ vì sao đã bị mất. Loại chữ này được sử dụng rộng rãi trong dân
chúng nhưng có một số người Hán không dùng. Tạm gọi là quốc ngữ. Giới Nho sĩ
đương thời hầu như đều biết chung
chung nhưng không phân tích thấu đáo. Hiện nay, xác định cách gọi là quốc ngữ.
chung nhưng không phân tích thấu đáo. Hiện nay, xác định cách gọi là quốc ngữ.
Người Nhật không
chỉ tạo ra loại chữ Kanji riêng dựa trên cơ sở chữ Hán, mà còn tiếp
nhận một trong những thể loại văn học có hình thức diễn đạt kiểu Trung Quốc là “Hán thi” và sáng tác nhiều “Hán thi Nhật Bản” mang phong cách riêng của người Nhật. Ở đây, tôi xin
giới thiệu một số bài Hán thi của Masaoka Shiki, thuộc dòng Hán thi thời Minh Trị.
nhận một trong những thể loại văn học có hình thức diễn đạt kiểu Trung Quốc là “Hán thi” và sáng tác nhiều “Hán thi Nhật Bản” mang phong cách riêng của người Nhật. Ở đây, tôi xin
giới thiệu một số bài Hán thi của Masaoka Shiki, thuộc dòng Hán thi thời Minh Trị.
3. Hán thi Nhật Bản (Hán thi của Masaoka
Shiki)
Masaoka Shiki
sinh năm Khánh Ứng 3 (1867) tại Matsuyama thuộc tỉnh Ehime. Tên thật là Tsunenori, hồi nhỏ được gọi là Tokoro no Suke, hay Noboru. Ông học Hán thi từ
ông ngoại là Ohara Kanzan trong thời gian học tiểu học, vào năm Minh Trị 13
(1880) thì lên học trường Trung học Matsuyama. Năm Meiji 16 ông học xong trung học ở Matsuyama và lên
Tokyo, năm sau vào học dự bị đại học, trở nên quan tâm sâu sắc về văn học và
triết học, bắt đầu sáng tác thơ và haiku. Ông gặp gỡ Natsume
Soseki cũng trong thời gian này.
Năm Minh Trị 23
(1890) ông vào học tại Khoa Quốc văn, Trường Đại học Tokyo. Từ tháng 6 năm Minh
Trị 25 ông liên tục đăng bài “Chuyện về thơ haiku
ở thư phòng bề bộn kinh điển” trên tạp chí “Nhật Bản”. Ông trượt kỳ thi ở trường đại học trong năm đó
và bỏ học, vào làm ở tạp chí “Nhật Bản” từ tháng 12. Từ năm đó trở đi, ông sáng
tác rất nhiều thơ haiku.
Năm Minh Trị 28,
ông trở thành nhà báo quân đội trong chiến tranh Nhật- Thanh, trên đường trở về bị thổ huyết, rồi lâm bệnh nặng trong một thời gian dài. Tháng 2
năm Minh Trị 31 ông công bố Sách đọc thơ,
bắt tay vào việc cách tân thơ tanka.
Ông phủ nhận Cổ kim tập (Kokinshu), đề
cao Vạn diệp tập và nhà thơ Minamono
Sanetomo, thành lập hội tanka
Negishi. Ông phát động cách tân ngôn ngữ dùng trong thơ haiku, tanka, đề xướng lối
viết tả thực.
Trong thời gian
bị thoái hóa cột sống, ông đã viết trên giường bệnh những tác phẩm như Một giọt mực, Giường bệnh sáu thước, Chuyện
nằm bệnh.
Ngày
19 tháng 9 năm Minh Trị 35 (1902), ông từ trần ở tuổi 36, để lại 3 bài thơ tuyệt
bút.
Bài
thơ dưới đây là bài Hán thi đầu tiên của Shiki
聞子規(子規を聞く)
一声孤月下 一声 孤月の下
啼血不堪聞 啼血 聞くに堪へず
夜半空欹枕 夜半 しく枕をつ
古郷万里雲 古郷 万里の雲
Nghe
tiếng chim tử quy
Dưới vầng trăng
cô độc
Tiếng chim kêu
thống thiết
Nghe vọng giữa
đêm thâu
Vạn
trùng mây quê cũ
Trong phần tự
ghi chú ông có viết rằng “thơ của tôi được sáng tác bắt đầu từ bài này”, vậy đây là tác phẩm đầu tay của Shiki. Theo tư liệu được trình bày dưới đây, Shiki
đã viết bài thơ này năm 12 tuổi.
Thác
lời vào ngọn bút (năm Minh Trị 21)
Không
hiểu sao từ thuở nhỏ tôi đã tỏ ra rất thích thơ. Khoảng 8- 9 tuổi tôi được tiếp
cận Hán văn qua ông ngoại Kanzan. Dạo đó có một chuyện như thế này. Một buổi sáng nọ
khi bước lên hiên nhà tôi nhìn thấy một nhóm 2, 3 học trò đang xếp bàn ghế, có một
người cầm quyển vở bên trong có chữ viết bằng mực đen xen lẫn chữ viết bằng mực
đỏ. Khi hỏi quyển
đó là cái gì thì người này trả lời rằng đó là thơ. Tôi hoàn toàn chưa chưa biết chữ viết bằng mực đỏ là thế nào, mà cũng không hiểu thơ là gì, chỉ biết rằng những con chữ được viết bằng mực đen và mực đỏ tương phản với nhau trông rất đẹp mắt. Và tôi mong mình lớn nhanh để làm thơ.
đó là cái gì thì người này trả lời rằng đó là thơ. Tôi hoàn toàn chưa chưa biết chữ viết bằng mực đỏ là thế nào, mà cũng không hiểu thơ là gì, chỉ biết rằng những con chữ được viết bằng mực đen và mực đỏ tương phản với nhau trông rất đẹp mắt. Và tôi mong mình lớn nhanh để làm thơ.
Sau
đó không bao lâu thì ông tôi mất, và tôi chuyển sang học Hán văn với thầy
Tsuchiya Yasuaki, rồi học cách làm thơ, tiếp cận với những sách vở dễ hiểu dành cho trẻ
em, học về luật bằng trắc trong thơ vào mùa hè năm Minh Trị 11. Và mỗi ngày tôi làm một
bài thơ ngũ ngôn tuyệt cú nhờ thầy xem.
Sinh thời, Shiki
đã sáng tác khoảng 20.000 bài Hán thi. Dưới đây tôi xin giới thiệu 2 bài là Tiễn Natsume Soseki đi Iyo và Đảo Itsukushima.
Bài thơ được
sáng tác khi tiễn bạn của Shiki là Natsume Soseki làm giáo viên, đi nhận công
tác ở Matsuyama là bài dưới đây:
tác ở Matsuyama là bài dưới đây:
送夏目漱石之伊豫(夏目漱石の伊豫に之くを送る)
去矣三千里 けよ 三千里
送君生暮寒 君を送れば 暮寒生ず
空中懸大嶽 空中に大嶽かり
海末起長瀾 海末に起こる
僻地交遊少 僻地 交遊に
狡児教化難 狡児 教化からん
清明期再会 清明 再会を期す
莫後晩花残 晩花のはるるにるることかれ
Tiễn
Natsume Soseki đi Iyo
Tiễn người đi
xa ba vạn dặm
Trong tiết trời
lạnh lẽo cuối đông
Núi sừng sững
giữa trời
Sóng trải dài cuối
bể
Chốn xa xôi ít
chuyện giao du
Trẻ ngỗ ngược
khó bề dạy bảo
Mong gặp lại
vào dịp thanh minh
Đừng đến muộn kẻo
hoa đêm tàn
Bài thơ này sử dụng
điển cố về việc tiêu dao trong sách Trang
tử để nói về tâm tình dành cho Soseki trước hoàn cảnh đi nhận công tác ở Iyo.
Soseki đã có bài
thơ họa lại bài thơ này, dùng các chữ có vần ở cuối câu như “hàn”, “lan”,
“nan”, “tàn” đã được Shiki dùng trong bài thơ trên.
無題
海南千里遠 海南 千里遠く
欲別暮天寒 別れんと欲して 暮天し
鉄笛吹紅雪 紅雪を吹き
火輪沸紫瀾 火輪 紫瀾をかす
為君憂国易 君の為に国を憂ふるはく
作客到家難 客とりて家に到るはし
三十巽還坎 三十 にしてた
功名夢半残 功名 夢ばす
Vô
đề
Biển nam xa
ngàn dặm
Chia tay lúc cuối
đông
Tiếng sáo thổi
tuyết hồng
Ánh tà dương
nhuộm sóng
Dễ làm vua yêu nước
Khó làm khách gửi
thân
Ba mươi tập chưa đủ
Công danh giấc
mộng tàn
Bài
thơ tiếp theo là bài vịnh đảo Itsukushima trù phú.
厳嶋
海中起宮殿 海中に 宮殿起こる
非是蜃気楼 れ蜃気楼に非ず
名曰厳嶋社 名づけて厳嶋社と曰ふ
遠矣所来由 遠きかな 来由する所
毛公曾用武 毛公 て武を用ひ
一挙復君讎 一挙 君のを復す
特筆記義戦 特筆して 義戦をすも
寂莫三百秋 寂莫たり 三百秋
借問人不知 借問するも 人は知らず
往事何処求 往事 れの処にか求めん
城塞皆已非 城塞 皆已にきも
山高海長流 山は高く 海はへに流る
Itsukushima
Giữa trùng khơi
nguy nga cung điện
Phải chăng ảo ảnh
giữa đại dương
Ấy là đền
Itsukushima danh tiếng
Nơi vùng đất
văn hiến xa xăm
Mao Công ngày
trước dùng vũ lực
Từng ra tay báo
thù cho vua
Gây cuộc chiến
tranh vì nghĩa lớn
Đã ba trăm mùa
thu tĩnh mịch
Hỏi thăm không
ai biết
Chuyện cũ tìm
nơi đâu
Thành cũ không
còn ai
Núi cao biển trải
dài
Hai câu cuối
“Thành cũ không còn ai/ Núi cao biển trải dài” sử dụng điển cố từ bài thơ Xuân vọng của Đỗ Phủ- nhà thơ thời Thịnh
Đường.
国破山河在 国破れて 山河在り
城春草木深 城春にして 草木深し
Quốc
phá sơn hà tại
Thành
xuân thảo mộc thâm
(Mất
nước, còn sông núi
Thành xuân rậm cỏ cây)
Thành xuân rậm cỏ cây)
Như vậy, giới
văn nhân thời Minh Trị sáng tác Hán thi như một thể loại thơ ca, cùng với waka và haiku. Thời Edo cũng có nhiểu nhà thơ nổi tiếng với thể loại Hán
thi như Rai Sanyo, Kan Chazan..v.v.. đã sáng tác nhiều bài thơ hay.
4. Kết luận
Trong hoàn cảnh
giao lưu đa văn hóa phát triển, chúng ta không thể bỏ qua tính quan trọng của việc tìm hiểu sự khác biệt văn hóa. Việt Nam vốn là một đất nước thuộc vùng
văn hóa chữ Hán, cùng sử dụng Hán tự như các nước Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản. Tuy
nhiên, các nước Đông Á đều có nền văn hóa riêng, thế giới quan và tư tưởng cũng khác
biệt. Ngài La Điền Quảng, tổng lãnh sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa làm việc ở Tổng
lãnh sự quán Osaka - đã qua đời năm ngoái- đã nói rằng Nhật Bản và Trung Quốc khác
nhau, nên trước hết nhân dân hai nước cần phải hiểu rõ những điểm khác nhau đó.
Hơn nữa, ông Ohira Masayoshi từng giữ chức Thủ tướng (đương thời là Bộ trưởng Bộ
Ngoại giao), đã dùng chữ “tính nguy hiểm của sự giống nhau” để nói về quan hệ
Nhật – Trung. Nếu quá nhấn mạnh chuyện giống nhau thì sẽ bị phản tác dụng, không tốt cho giao lưu quốc tế. Để
xây dựng một xã hội chung sống đa văn hóa thì không chỉ cần tìm kiếm những điểm
chung để đồng cảm mà trước hết còn phải tìm hiểu sự khác biệt về văn hóa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét